[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]I am đàn bà[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Y Ban[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]... Một thằng bé được mới sinh còn nguyên cả dây rốn nối với bánh rau bị bỏ vào một cái dành lót rơm treo lên nhành cây trong rừng. Thị đi kiếm mật ong nhìn thấy cái dành bèn lấy xuống. Nhìn thấy thằng bé tím ngắt bị kiến bu đầy người, cắn thủng cả mí mắt thị hét lên rùng rợn. Tiếng hét dội vào rừng cây vọng lại thành tiếng hú thê thảm. Sau sự sợ hãi là sự đau đớn chất cùng phả ra từ bản năng làm mẹ của thị. Thị khóc vật vã. Khóc kiệt cùng. Một lát sau nước mắt thị khô kiệt. Thị cũng không hiểu sao nước mắt thị mau kiệt thế. Thị lấy con dao phát rừng mang theo đào cái huyệt nhỏ ngay dưới gốc cây treo thằng bé. Xong thị cởi chiếc áo mặc ngoài đã sờn vai bọc thằng bé lại. Thị đặt lại bánh rau lên bụng thằng bé, như cái lúc nó nằm trong bụng mẹ. Tay thị đụng vào chim thằng bé. Bỗng thị giật thột. Cái chim thằng bé cưng cứng. Không tin vào cái cảm giác thoáng qua ấy, thị dùng cả 5 ngón tay phải sờ vào chim thằng bé. Cái chim còn cứng. Cái chim còn cứng thì thằng bé còn sống, thằng bé còn sống. Thị vội cởi nốt chiếc áo lót rồi ôm thằng bé sát vào ngực thị. Một cuộc luân hồi được nén trong ngực thị. Thị cảm nhận sự ấm dần lên trên cơ thể thằng bé. Và nó đã tìm được vú thị từ lúc nào. Nó mút chùn chụt. Hai bầu vú thị còn sót lại ít sữa của đứa con thứ 3 còi cọc, nó đã hơn 2 tuổi mà thị cũng chưa lỡ cai. Thị ôm chặt thằng bé vào ngực mang về nhà. Chồng thị tá hoả tam tinh khi nhìn thấy hình hài thằng bé. Rồi gã sầm mặt xuống vì biết chắc rằng nhà gã lại có thêm một miệng ăn nữa. Gã vừa lầu bầu vừa đi đun nước sôi. Gã hò con bé lớn lên 8: - Còn ngây ra đấy mà xem cái gì. Đi ra trạm xá, bảo bà Miêu đến cắt rốn cho em. Con bé cười toe toét: - Cắt rốn cho em hả bố. Thị cũng cười. Cái nét cười làm mặt thị rạng rỡ vô cùng. Thị lựa đặt thằng bé xuống gường nựng nọt: - Con nằm xuống đây mẹ đi tìm tã cho con nào. Con bé lớn vừa chạy vừa hò: - Mẹ cháu bắt được em cháu ở trên cây. Cây đẻ ra em cháu, còn nguyên cả dây rốn với bánh rau. Khi bà Miêu chạy từ trạm xá đến nhà thị thì nhà thị đã chặt ních người. Cả làng đổ xô đến xem thằng bé do cây đẻ ra. Bà Miêu rẽ đám người đến chỗ thằng bé, miệng gào to: - Thời buổi này là thời buổi nào mà còn tin là cây đẻ ra người hử? Không chịu chăm nom dạy dỗ con cái tử tế rồi mới sinh ra cơ sự thế này đây. - Nào nước sôi chưa, mang lên đây. Bà Miêu thao tác rất thiện nghệ. Nhoáng cái thằng bé đã được cắt rốn và tắm táp sạch sẽ. Da thằng bé đã đỏ lại, chỉ còn những nốt kiến cắn trên mắt khiến thằng bé không mở được mắt ra. Bà Miêu có vẻ khoái trí với sản phẩm của mình hôn chụt vào má thằng bé một cái rồi quay sang hỏi vợ chồng thị: - Tính sao? Nhà rách như tổ đỉa, lại thêm miệng ăn nữa rồi lấy gì mà đổ vào mồm? Hay là để tôi bế nó ra trạm xá hỏi xem có nhà nào không có con, cho người ta. Thị giãy lên như đỉa phải vôi: - Không có đâu. Trời đã cho nhà chúng tôi rồi, thì nhà tôi phải nuôi nó chứ. Bà Miêu lại tiếp: - Đấy là ý ả, còn ý chàng là sao? Không thuận lòng rồi thì đánh nhau. Chồng thị nhát gừng: - Mỗi con mỗi của thêm giàu. Nghèo của nhưng giàu con cũng được. Nhà tôi nhặt được nó thì nhà tôi nuôi. Thằng bé được đặt tên là Đức. Bốn anh em nhà nó có tên là: Sáng, Láng, Nhân, Đức. Nó bú sữa cặn của thằng anh thứ 3 là Nhân nhưng cũng lớn vổng lên. Thêm một khẩu ăn nhưng nhà thị không được chia thêm mẩu đất nào. Ông chủ tịch xã nói: Không nuôi được thì đem vào rừng mà trả cho cây chứ lấy đâu đất ra nữa mà chia cho nhà chị. Người đẻ được chứ đất có đẻ được đâu. Vợ chồng thị không vì thế mà ghét bỏ thằng bé. Có phần nó được chiều chuộng hơn vì là bé nhất. Vợ chồng thị tay lam tay làm nổi tiếng trong làng. Trên đất đai nhà thị lúc nào cũng có cây mọc nhưng đất cằn quá không cho năng xuất cao. Thế là chỉ đủ cái bỏ mồm. Bọn trẻ thì đang tuổi lớn ăn rào rào như tằm ăn rỗi. Suốt ngày cúi mặt trên đất kiếm cái ăn mà không biết thiên hạ đã thay đổi quá nhiều. Khi thằng Đức lên 5 thì làng quê thị ở có một sự đổi thay lớn. Ấy là cái thứ đàn bà bao đời quanh quẩn xó bếp bỗng đâu được xuất ngoại đi ra nước ngoài làm ăn. Nhìn người trong làng trong xóm tiễn đưa nhau đi máy bay, rồi lại đưa nhau ra bưu điện lĩnh tiền. Có tiền thì xây nhà, mua tivi. Vợ chồng thị thi thoảng cũng được mời đến ăn liên hoan. Đêm vợ chồng nằm với nhau cũng có mơ. Mơ con Sáng, con Láng được đi xuất khẩu. Thân con gái ở với cha mẹ nghèo khổ quá rồi, mơ cho con bớt khổ một chút. Còn thằng Nhân, thằng Đức thì thôi, ở lại quê cày ruộng cũng được. “Con Sáng, con Láng con ơi”. Thị bỗng nức nở hờ con. Phận đàn bà sao khổ quá con ơi. Mẹ những mong đi làm đất khách quê người để có tiền cho các con mẹ ít nhiều. Ai ngờ mẹ lại mắc tội tày đình thế này. Ới các con ơi. Mẹ đã đập đầu mà chết nhưng thương các con đứt ruột nên không đành chết con ơi. Các con hiểu cho mẹ, mà tha tội cho mẹ nhé. Mẹ đập đầu xin các con tha tội. Ủa, xỉ, xỉ xỉ... Tiếng la ó ầm lên trong phòng giam. Thị biết là họ đang la ó thị. Thị khóc gào lên trong đêm làm mất giấc ngủ của họ. Thị kệ thây. Thị cứ hờ tên con ra mà khóc. Khóc cho tan sự đau đớn chất chứa trong lòng. Sao ông trời lại đầy ải thị khốn khổ đến thế này. Nào thị có ăn ở ác độc với ai đâu. Đời thị khốn khó từ tấm bé nên thị chẳng bao giờ mơ sự sung sướng ở đời. Nhưng cũng chẳng khi nào thị lại nghĩ rằng mình bị vướng vào vòng lao lý như thế này. - Câm mồm, kẻ nào làm ồn thế. Câm mồm đi không thì chuyển sang biệt giam. Thị ngừng khóc. Người vừa nói với thị là một người đàn ông trung tuổi đi cùng với nhân viên trại giam. Nhân viên trại giam ủa xỉ với người đàn ông một tràng dài rồi bỏ đi. Còn lại mình người đàn ông trung niên, vẫy thị lại gần: - Tôi là phiên dịch. Hôm trước luật sư đã nói với chị rồi mà chị không chịu hiểu à? Nay tôi nói lại với chị. Chị nên giữ sức khoẻ và sự minh mẫn để mai còn ra toà. Chị cũng nên suy nghĩ xem để nói gì trước toà. Chị phải tự biện minh cho chính mình. Biết đâu đấy chị lại trắng án, được về với con. Nghe lời tôi đừng có kêu khóc nữa. Thị nằm im để nghe ngóng chính mình. Cơ thể thị mệt rã rời nhưng đầu óc thị lại thật tỉnh táo. Ý nghĩ của thị quay trở về cái làng của thị. Lại một đợt người ta về làng tuyển phụ nữ sang Đài Loan làm nghề giúp việc. Chồng thị bảo: - Hay u em cứ đi tuyển xem sao. Xa cách 2 năm nhanh mà. Cái nhà dột quá rồi chẳng trụ nổi mấy mùa mưa giông nữa đâu. - Ừ, tôi cứ thử đi tuyển xem sao. Nhưng lấy đâu ra tiền đặt cọc cho người ta. - Thì cứ tuyển đã, rồi tính sau. Người đàn bà hay lam hay làm, bắp chân to như cây chuối hột, bàn tay to như cái quạt nan, nước da nâu rám, hàng răng hạt na đều tăm tắp, mắt bồ câu đen láy. Ai mà không chọn người đàn bà như thế. Cái khó là ở khoản tiền đặt cọc. Nhà thị mà có khoản tiền to thế thì thị đã sửa được nhà khỏi phải đi Đài Loan. Có một người trong đoàn đi tuyển đến nhà thị ngó xem rồi đưa ra giải pháp, họ cho nhà thị vay tiền đặt cọc rồi hàng tháng thị gửi tiền về trả dần. Buổi tiễn đưa thị ngập tràn nước mắt. Bốn đứa con thị ôm thị gào khóc. Thị rứt ruột ra đi. Sang Đài Loan thị làm giúp việc cho một gia đình có người bị liệt. Người bị liệt vốn 1 năm trước là ông chủ tài hoa, giàu có, không may bị tai nạn ô tô. Đã chữa trị hết nước hết cái rồi. Nay nằm im trên gường như một cái thây sống. Nhất cử nhất động phải có người giúp. Bà chủ cũng tầm tầm tuổi thị. Cái tầm tuổi còn tràn đầy sức lực với vốn kinh nghiệm đã khá. Hai đứa con nhà chủ cũng tầm tuổi Sáng, Láng nhà thị. Nhìn thấy chúng, thị nhớ con nấc nghẹn thở. Một tuần đầu thị được bà chủ huấn luyện sử dụng các thiết bị trong nhà. Thị cũng chẳng ngờ mình lại sáng dạ thế. Thị học được hết cách sử dụng các dụng cụ, thiết bị gia đình. Toàn những thứ tối tân chứ có phải thường đâu. Bà chủ còn dạy cách lau dọn nhà, cách nấu ăn. Đặc biệt là cách chăm sóc ông chủ nằm liệt gường, cách thay quần thay áo, cách lau mặt, cách cho ăn... Sau một tuần huấn luyện, thấy thị nhanh nhẹn, bà chủ có vẻ bằng lòng lắm, bèn để thị ở nhà một mình chăm sóc ông chủ. Thời gian biểu của gia đình bà chủ thế này. Buổi sáng bọn trẻ dậy đi học vào lúc 7 giờ. Bà chủ dậy lúc 8 giờ, tắm và trang điểm đến 9 giờ thì đi làm. Thị và ông chủ được rốt kín ở trong nhà. Bọn trẻ học thông tầm đến 3 giờ chiều về nhà, đứa nào về phòng đứa đấy. Bà chủ về không có ca cữ gì, khi thì 6 giờ tối, khi thì 11 giờ đêm. Thị không hiểu là trước khi thị đến làm giúp việc cho ngôi nhà này thì ông chủ được chăm sóc thế nào? Những đứa con có đến thăm bố thường xuyên không? Chứ từ khi thị đến thị thấy rằng bọn trẻ con chẳng quan tâm gì đến cha chúng đang nằm trên giường bệnh. Thi thoảng mẹ chúng thúc giục lắm thì chúng mới vào phòng cha, nắm cái tay chiếu lệ, hôn cái hôn chiếu lệ, nhìn cái nhìn chiếu lệ. Thị rất ác cảm với cái sự chiếu lệ của chúng. Còn người vợ thì vẫn còn thương xót chồng lắm. Khi thị mới đến thì thị không phải tắm cho ông chủ. Ngày cuối tuần bà chủ tự tay tắm cho chồng, thị chỉ giúp bà chủ đưa ông chủ vào nhà tắm. Khi thị mới đến thị thấy đêm nào bà chủ cũng vào ngủ với chồng. Khi thị mới đến thị hay bắt gặp bà chủ đứng nhìn ông chủ ngủ rồi lặng lẽ khóc. Khóc rất lâu rồi đi uống rượu say mèm. Thị nhìn bà chủ thương xót vô cùng. Thị muốn an ủi bà chủ nhưng thị chả nói được mấy câu tiếng nước ngoài thành ra lại thôi. Công việc cuốn thời gian trôi đi vèo vèo. Giờ thì thị thạo việc lắm rồi. Thị làm việc nhà chỉ trong 1 tiếng đồng hồ. Còn thời gian mênh mông đến chiều thị chả biết làm gì. Thị đi lên đi xuống, thị ngó vào phòng nọ phòng kia. Thị bật ti vi để xem hình. Cũng chỉ hết một tiếng. Thị ngáp rồi nằm ườn ra ghế đệm, tận hưởng cái sự sạch sẽ êm ái. Thị muốn ngủ cho thời gian trôi nhanh đi nhưng thị chả bao giờ ngủ ngày thành ra cũng không ngủ được. Chán, thị đi vào phòng ông chủ, là để nhìn thấy người, chứ ngày qua ngày thị với cái bóng của thị giam trong 4 bức tường. Ông chủ mở mắt mình đăm đăm lên trần nhà. Thôi thì có người rồi, nói đi vậy. Có nói tiếng gì trên đời thì ông chủ cũng có nghe được đâu. Thị mỉm cười nhìn vào mặt ông chủ: - Có biết gì không? Chả biết gì rồi? - Sao mà đến cơ sự này? Mới chưa đến 40 mà suốt ngày phải nằm trên gường thế này khó chịu lắm nhẩy? - Trước đây sao không chịu dạy con cái? Chúng ích kỷ quá, chả chịu chăm nom bố một tí. Chúng mà chịu chăm nom bố thì khéo mà khỏi bệnh chứ nhẩy. - Nằm nhiều vậy có mỏi lưng lắm không? Tôi bóp chân bóp tay cho nhé. - Cái khoản này thì chả có trong hợp đồng đâu nhưng thôi tôi cũng chả biết làm gì, tôi bóp chân bóp tay cho anh nhé. Cái cách xoa bóp này thị đã được mẹ thị truyền cho từ hồi thị còn bé. Thị làm rất bài bản. Xoa bóp từ đầu trước, bấm các huyệt, giật tóc. Rồi từ xương ức toả ra các dẻ xương sườn. Từ các mỏm xương đến các đầu mút ngón tay ngón chân. Thị còn lật xấp ông chủ xuống để xoa bóp lưng, bấm ngón tay vào từng đốt sống. Lại còn nhổ bão kêu sần sật. Xong, thị lật ông chủ nằm ngửa. Thị nhìn vào mắt ông chủ xem nó có biểu hiện gì không? - Thích không? Chả thích quá đi ấy chứ. Thích thì gật đi để bận sau tôi còn làm cho. Vừa nói thị vừa gật gật cái đầu. - Chán quá, mắt chẳng còn tí hồn nào thế kia. Thôi nhắm mắt ngủ đi. Thị lấy ngón tay khép mắt ông chủ lại. Thế là thị có cách giải khuây. Ngày nào thị cũng nói chuyện và xoa bóp cho ông chủ. Thị cũng chẳng nhớ là vào lần thứ bao nhiêu thì thị bỗng nhìn ra mắt ông chủ đã có hồn. Ấy là khi thấy thị bước vào, hai con ngươi trong mắt ông chủ nó hướng về phía thị: - A thì ra mắt cu cậu có tinh rồi. Nhận ra nhau rồi phải không? Thế để chị xoa bóp cho nhé. Hôm nay chị sẽ xoa kỹ vùng đầu. Cái đầu là quan trọng lắm đấy. Bộ chỉ huy đây. Biết đâu 2 năm chị làm ở đây thì cu cậu đứng dậy đi được đấy. Khi ấy phải thưởng to cho chị để chị xây cái nhà mái bằng nhé. Hôm ấy cái đôi tròng mắt có tinh của ông chủ đã khiến thị vui vẻ lắm. Thị vừa xoa bóp cho ông chủ thị vừa hát. Thị chỉ thuộc mấy bài hát ru con. Thị hát được một tí thì nhớ con quá thế là nước mắt rơi tong tong lên ngực ông chủ. Một lát nguôi ngoai đi thị lại bật cười: - Này không phải chị thương cu cậu đâu nhé. Chớ tưởng bở. Ấy là chị nhớ chúng quá. Con Sáng 14 tuổi rồi đấy. Khi chị về chị sẽ mua cho nó một đôi vòng tàu, làm của hồi môn cho nó đi lấy chồng. Con Láng 13 rồi, thằng Nhân lên 8, thằng Đức lên 6. Cái thằng Đức ấy chị nhặt được nó trên cây đấy. Chị thương bố cu nhà chị lắm. Chị đi thế này, bố cu nhà chị thèm chị lắm đấy. Bố cu nhà chị khỏe mạnh lắm, chỉ phải tội cứ hùng hục như trâu ấy. Có lần chị bảo rồi đây, cái chuyện tình cảm chứ có phải đi cày đâu mà bố nó cứ phải đổ mồ hôi thế. Bố cu nhà chị bảo: Cái số tôi nó vất vả, thế u nó không thấy đến ăn cơm tôi cũng đổ mồ hôi à? Thôi xong rồi. Chị xoa bóp cho cu xong chị cũng vã mồ hôi ra đây. Chị đi tắm cái đã. Thị lật người ông chủ nằm ngửa lên, Như mọi bận thị lấy ngón tay trỏ khép hai mi mắt ông chủ lại. Bỗng thị giật mình: Ồ cu khóc à? Cu khóc được rồi à. Khóc được là biết rồi đấy. Buổi tối thị rất muốn khoe với bà chủ là ông chủ đã biết khóc rồi. Biết khóc rồi là có cảm giác con người rồi, không vô tri vô giác nữa. Vậy mà thị chẳng biết diễn đạt thế nào. Thời tiết nóng nực, oi ả. Làm xong việc nhà áo thị ướt đẫm mồ hồi. Thị định bụng xoa bóp xong cho ông chủ thì mới đi tắm. Vào phòng ông chủ cái thị gặp trước tiên là đôi mắt của ông chủ như cầu xin thị điều gì. - Vậy gì cu? Định nói gì? Nóng hả? Biết rồi. Trời nóng lắm nhưng bà chủ bảo không được nằm điều hoà nhiều, không tốt, không tốt. - Nào, để chị xoa bóp cho nhé. Ối giời ơi người đầy rôm sẩy thế này. Được tắm một cái là nhất đời đấy. Hay là chị bảo bà chủ không đóng bỉm cho cu nữa nhé. Chị sẽ vào xem cu có buồn tiểu không thì chị cho đi. - Ối giời cái lưng đỏ lựng thế nào. Ngứa lắm hả, để chị gãi cho. Vậy nhé. Chị cũng định tắm cho cu nhưng chị sợ bà chủ không đồng ý rồi lại trừ lương của chị. Mắng chị cũng được, chửi chị cũng được nhưng đừng trừ lương của chị. Chị sợ nhất là bị trừ lương đấy. Số tiền hai năm làm ở nhà cu trừ lãi tiền đặt cọc vay của người ta đi thì cũng chẳng còn được là bao đâu. Thế mà nhà chị ai cũng nghèo, ai chị cũng muốn cho một tí. - Hai thằng cu nhà chị cứ đến mùa hè là người sặt rôm sẩy. Chị cứ phải vò lá kinh giới với lá đào tắm cho chúng. Tắm hai bận là khỏi sạch rôm. Hay là để chị lấy khăn ướt lau lưng cho cu nhé. Chị hiểu và thương cu lắm nhưng chị không thể làm trái lời bà chủ được. -Nào, lau cái mặt trước này. Cái mặt này cũng khôi ngô đấy chứ. Chưa bị ốm chắc ối cô mê đây. Tối đấy bà chủ về muộn nhưng thị cứ một mực chờ. Thị chờ bà chủ về để nói với bà chủ rằng ông chủ nhiều rôm sẩy trên người, phải cần tắm thường xuyên chứ không thì cái sẩy nó nẩy cái ung, khốn đấy. Bà chủ về, thị đã ra hiệu đủ kiểu mà bà chủ không hiểu gì cả. Thị bèn dẫn bà chủ vào trong phòng ông chủ, vạch áo ông chủ lên cho bà chủ xem. Thị quan sát thấy bà chủ không tỏ vẻ gì cả. Thật bình tĩnh bà chủ còn gỡ luôn cả bỉm của ông chủ tô hô trước mặt thị. Bà chủ nhìn cái đống bùng nhùng trong bỉm nhăn mặt gớm giếc rồi kéo chiếc chăn mỏng phủ lên. Bà chủ ra ngoài gọi điện thoại. Lát sau người của công ty đưa thị sang Đài Loan làm việc gọi điện cho thị: - Bà chủ nói là bà chủ muốn chị thay bỉm, rửa ráy, tắm táp cho ông chủ. Chị sẽ được trả thêm 50 tệ nữa. Chị có làm được không? Nghe thấy được trả thêm tiền thị mừng ú. Thị đồng ý luôn. Và thị biết việc thị phải làm ngay là gì. Thị vào trong phòng ông chủ thay bỉm rửa ráy sạch sẽ cho ông chủ. Sáng hôm sau khi cả nhà bà chủ đã đi làm hết, việc đầu tiên là thị vào phòng ông chủ: - Cu, hôm nay chị sẽ không đóng bỉm cho cu nữa. Cu hợp tác với chị nhé. Cứ 3 giờ chị cho cu đi tiểu một lần. Còn đi ị? Khó nhỉ. Hay là khi nào buồn cu khóc báo cho chị một tiếng. Ối dào chị lại buồn cười rồi, cu mà biết khóc khi buồn đái, buồn ị thì đã khôn rồi chứ chả dại thế này đâu. Thôi chị sẽ tự tìm cách vậy. - Cu nằm đây chờ chị dọn dẹp xong nhà cửa rồi chị vào xoa bóp cho, xoa bóp xong thì mình đi tắm. Thị vui. Thị vui lắm. Một tháng được thêm 50 tệ nữa là được hơn 100 ngàn đồng Việt Nam rồi. Còn bao nhiêu tháng nữa nhỉ. Một, hai, ba, bốn... Mình đã ở được 10 tháng rồi, còn 14 tháng nữa. Thế là được thêm hơn 1 triệu nữa. Mình sẽ mua cho các con mấy bộ quần áo đẹp. - Xong rồi, chị dọn nhà xong rồi. Chị xoa bóp cho cu nào. À hôm nay chị vui lắm, chị hát cho cu nghe nay. Chị hát bài dân ca quê chị nhé: Con cò là cò bay lả bay la. Bay từ cửa phủ bay qua là qua cánh đồng. Tình tính tang là tang tính tình. Cô mình rằng cô mình ơi rằng có nhớ là nhớ anh không. Hay không cu. Này cu biết không? Chị ít học lắm. Chả được học như người ta đâu nên chị cũng chả thuộc mấy bài hát đâu. Chị toàn thuộc bài con cò thôi. Những bài hát này ngày xưa mẹ chị hay hát nên chị nghe nhiều thành thuộc đấy. Chị lại hát bài con cò nhé: Con cò mà đi ăn đêm. Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. Ông ơi ông vớt tôi nao. Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng. Có xáo thì xáo nước trong. Chớ xáo nước đục đau lòng cò con. - Xong rồi nằm chờ chị vào pha nước tắm nhé. - Nào để chị bế cu vào nhà tắm nào. - Thế cu ngoan lắm. Mát không? Chị kỳ cọ cho sạch sẽ nhé. Chết nỗi cái chân bé đi rồi này. May mà chị xoa bóp cho thường xuyên đấy. - Cái lưng nằm nhiều là mỏi lắm đây chị cọ cho mềm ra này. Cái nách không cọ sạch là hăm đây. Còn... Kỳ đến cái chỗ “con giống con má” thì thị ngập ngừng. Mặt thị đỏ dựng lên. Thì “cu” là cái tên thị tự đặt cho ông chủ để tỏ sự thân thiết và cảm thông với hoàn cảnh của ông chủ, để công việc của thị tốt hơn mà thôi. Thị nghĩ, thị làm công việc chăm sóc người bệnh mà lại không có tình cảm thương mến người ta, thì khó mà chu đáo được. Nhưng “cu” là ông chủ, là người đàn ông thực thụ chứ đâu phải là thằng Đức mới sinh bị treo lên cây, mà thị được phép sờ nắn vào cái chỗ đấy. Người đàn ông thực thụ thì thị chỉ biết mỗi có bố cu nhà thị. Nói thực chứ, làm vợ kém một năm nữa là tròn mười lăm năm, đã có 3 mặt con với nhau mà nào thị dám sờ mó cái chỗ đó của chồng. Thì cũng nhì nhằng vậy thôi, chứ ngượng chết đi được... Nhìn thì chả sao, đằng này tay phải mó vào kỳ cọ. Mà không kỳ cọ thì sao sạch sẽ được. Rồi hăm ra, lở loét tội lắm. Thôi thì... Thị giấu mặt phía sau lưng ông chủ, thò tay vào háng ông chủ kỳ. Thần hồn nát thần tính, tay thị kỳ lia lịa mà chả biết là đang kỳ chỗ nào. Thì chỗ đấy cả, sạch là được. Thị lau khô nước trên người ông chủ, lấy máy sấy xì tóc ông chủ: - Tắm sạch sẽ trông cu bảnh bao phết. Chịu khó nóng một tí nhé. Để đầu ướt đi ngủ là hay bị nhức đầu lắm đấy. - Thôi được rồi, cu ngủ đi. Chị không đóng bỉm cho cu đâu. Thi thoảng chị sẽ vào để cho cu đi tè. Cái ngày đầu tiên không đóng bỉm cho ông chủ thị chỉ cho ông chủ đi tiểu vào bô được có một lần, còn thì ông chủ cứ “ô tô ma tic” ra quần. Thị phải tất bật lau chùi và giặt rũ. Cũng cái ngày đầu tiên bà chủ để cho thị tắm cho ông chủ thì tối đến bà chủ kiểm tra cơ thể ông chủ rất kỹ, xem thị tắm rửa có sạch sẽ không? Có nâng niu ông chủ nhẹ nhàng không? Bà chủ kiểm tra rất kỹ chỗ ấy. Thị đứng sau xem bà chủ kiểm tra mà giật mình đến thột: May quá, hôm nay mình đã kỳ chỗ ấy. Vì xấu hổ mà không kỳ thì lại bị trừ tiền mất. Bà chủ vỗ vào vai thị hài lòng. - Này cu, cu ngoan rồi đấy. Mấy ngày nay không “ô tô ma tíc” ra quần lần nào. Lúc nào buồn quá mà chị chưa kịp vào thì cũng cố nhịn một tí nhé. Không có thì chị khổ hơn đấy. Chị cứ phải giặt rũ nhiều thì chị mệt, chị không xoa bóp cho cu được đâu. - Chị biết rồi. Khi nào cu “buồn” là cái cu nó săn lại, chỉ săn một tẹo thôi, không như hai cu tí nhà chị đâu, nó săn tít lại cơ. - Cu ơi, may có cu đấy không có thì chị buồn chết. Mang tiếng là đi nước ngoài mà chị có biết mặt mũi nước ngoài nó thế nào đấy. Đến nhà cu là chị ở luôn tịt trong nhà. Chả bao giờ bà chủ cho chị ra khỏi nhà. Đến bước chân xuống cầu thang chị cũng chưa xuống. Chị cũng chẳng được nói chuyện với bà chủ với bọn trẻ. Hì hì, mà có bảo chị nói thì cũng chả hiểu gì nhau đâu. Ở quê chị bảo, ông nói gà bà nói vịt ấy mà. Có nghĩa là ông nói tiếng gà, bà nói tiếng vịt. Phải nói chung một tiếng mới hiểu nhau chứ. Chị nói cu chả hiểu chị nói gì đúng không? Nhưng mà không sao, miễn là người nói có kẻ nghe. Không có cứ lẩm bẩm nói một mình người ta lại bảo là bị rồ. - Cu ơi, chị nói cho cu bí mật của chị nhé. Ngày nào chị cũng đứng phơi ra ban công để hít khí giời một tí đấy. Không có thì cớm nắng mà chết đấy. Cái cây không có nắng là chết lăn quay. - Ôi, sung sướng quá. Sung sướng quá. Hôm nay chị được tặng quà. Con gái cu đấy. Chị không biết tại sao nó lại cho quà chị. Sáng nay lúc nó đi học thì chị đứng trong bếp, nó vào bếp chắp tay cúi chào chị. Nó còn nói cái gì nhưng chị không hiểu, xong nó rút từ trong cặp ra một gói quà được bao giấy hồng và buộc nơ rất đẹp đưa cho chị. Nó ra hiệu là cho chị. Chị chưa mở ra đâu. Chị chưa bao giờ được tặng quà như thế này đâu. Có, có củ khoai mớ rau thì hàng xóm cũng hay cho nhau. Con gái cu cũng tình cảm lắm đấy. Có hôm chị gặp nó cứ đứng nhìn cu ngủ rồi khóc. Chị đã nghĩ không đúng về nó lúc mới đến. - Nào đi tắm nào. Bà chủ ngày nào cũng kiểm tra chị có tắm cho cu sạch sẽ không? Chị cẩn thận lắm phải không cu. - Cu... Thị giật thột khi dưới tay thị có sự khác lạ. Thị đã kịp dừng lại tiếng kêu. Chả lẽ thị lại kêu... ối gượng chết. Thế có nghĩa rằng ông chủ đã có cảm giác. Cảm giác của ông chủ đã sống lại rồi. Cảm giác đã sống lại rồi thì có nghĩa là ông chủ đã sắp khỏi bệnh. ý nghĩ thúc đẩy hành vi. Thị cẩn thật sờ vào con giống của ông chủ. Mềm, vẫn là mềm rồi. Nhưng khi nãy rõ ràng là thị thấy có cảm giác nó động đậy và cưng cứng. Thị nắm tay vào con giống và nín thở để nghe ngóng, như cái cách thầy lang bắt mạch cho con bệnh. Tích tắc tích tắc... Thị nghe rõ tiếng đập thùm thụp của trái tim thị. Và thị cũng cảm nhận thấy sự lớn dần lên của con giống. - Cứng rồi cu ạ. cứng rồi cu ơi. Con giống của cu cứng lên rồi đấy. Tôi nay chị sẽ nói với bà chủ điều này. Cố lên cu ơi. Cu mà đứng dậy được thì chị được bà chủ thưởng to đấy. Nào thôi ngâm nước lâu rồi. Con giống con má của mẹ ơi. Mẹ truyền sự yêu thương của mẹ qua làn da con. Con có cảm nhận được điều ấy không. Rồi khi nào lớn khôn con sẽ truyền lại sự yêu thương của mẹ cho một cô gái qua con giống này của con. Con giống con má của mẹ ơi. Thị đã vừa lấy khăn lau vào con giống con má của ông chủ vừa hát bài hát của quê thị. Bài hát này của các bà mẹ khi tắm cho con trai và ngắm nhìn cái chim của nó. Thị cũng không hiểu vì sao thị lại vui mừng đến vậy. Cũng chẳng phải vì thị mơ tưởng đến số tiền thưởng mà bà chủ sẽ cho thị khi ông chủ khỏi bệnh. Mà biết đâu khi ông chủ khỏi bệnh thì bà chủ sẽ không thuê thị nữa. Ở với gia đình ông bà chủ này, ngoài việc thị bị dốt trong nhà thì thị chẳng bị ngược đãi gì. Qua nhà khác rồi chẳng biết thế nào. Có lẽ vì thị thấy tội nghiệp cho ông chủ quá. Đàn ông bị ốm trông tội nghiệp lắm. Bố cu nhà thị chỉ mới hu hi sốt, bỏ cơm ăn cháo mà thị đã thấy thương lắm, chăm sóc cho thật chu đáo. Còn người đàn ông xa lạ này, không họ hàng thân thích máu mủ gì nhưng thị đã chăm sóc cho một năm nay rồi. Thế là đã được một năm rồi đấy. Một năm nay người đàn ông được thị cho ăn uống, tắm rửa, hát ru, xoa bóp, nói chuyện... thì có khác gì người thân đâu. Như thằng cu Đức, chỉ có mấy phút ôm nó vào ngực mà nó đã luôn hồi thành kiếp người, để nó thành con thị. Khi nó ốm nó đau thì nỗi lo của thị cũng không hề khác gì ba đứa kia. Khi nó khoẻ mạnh, lúc nó cười thì thị cũng vui chẳng khác gì với ba đứa kia. Nay cái người đàn ông xa lạ kia cũng như người ruột thịt của thị. Thị đã không thể nói cái điều định nói cho bà chủ biết. Một phần vì thị chẳng biết diễn đạt thế nào, phần nữa vì thị cũng thấy xấu hổ. Cái chuyện tế nhị tế tam này. - Chị kể cho cu nghe con gái quê chị nhé. Con gái quê chị ai cũng chân to, chân to mới bám đất. Tay cũng to, tay to để làm. Con gái quê chị chẳng có đi học cao đâu, biết đọc biết viết rồi thôi. Trồng lúa trồng khoai thì chẳng cần học nhiều làm gì. Ngày xưa con gái quê chị chẳng ai đi xa khỏi làng. Con trai cũng không đi ra khỏi làng. Khi còn chiến tranh thì có nhiều người đi ra khỏi làng. Đi bộ đội ấy mà. Có người không phải đi bộ đội cũng xung phong vì thích đi khỏi làng. Đi nhiều lắm nhưng về ít thôi. Họ hy sinh. Có bà mẹ Gái ở đầu làng có chồng và 5 con trai đi bộ đội cả. Họ hy sinh tất mẹ Gái ở một mình cô quạnh. Mẹ được cả làng đùm bọc. Nhà có bát canh ngon cũng mang biếu mẹ. Khi đất nước hoà bình mẹ Gái được nhà nước phong tặng mẹ anh hùng, được nhà nước xây nhà cho. Có nhiều người đến thăm mẹ lắm. Mẹ còn được lên cả tivi. Mỗi lần lên tivi thì ngực mẹ đeo những cái lấp lánh. Ngưòi làng bảo là vàng đấy. Người làng cũng không hay đến nhà mẹ như xưa. Làng chị người ta cũng khái tính lắm. Người ta hay bảo thấy người sang bắt quàng làm họ. Nhưng cái chính là người ta ngại những cái lấp lánh trên ngực mẹ. Người ta bảo vàng thì phải tránh xa ra. Rồi mẹ Gái chết. Trên ngực mẹ người ta vẫn đeo những cái lấp lánh. Bỗng một hôm mộ của mẹ bị đào lên. Chuyện động giời. Ở làng chị từ xửa xưa không bao giờ có chuyện động giời như vậy. Lâu sau người ta bắt được một tên bán vàng giả. Hỏi cung hắn khai hắn đã đào trộm mộ mẹ Gái để lấy những cái lấp lánh trên ngực mẹ mà hắn tưởng là vàng. Những người bắt hắn cả cười chê hắn ngu dốt quá, không biết thế nào là huân chương thế nào là vàng. Hắn bị bỏ tù mấy năm vì tội ngu dốt đó. À, con gái làng chị cũng có người phải bán xới đấy. Mẹ chị bảo không được dùng từ ra đi, cái ngữ đấy phải dùng từ bán xới, cái giống đàn bà đi hoang. Cái chị đấy hơn chị một tuổi, xinh gái lắm. Chồng chị ấy chết mấy năm rồi mà bỗng dưng lại có chửa đẻ ra thằng cu rất đẹp. Cả làng dè bỉu, chửi bóng chửi gió, thấy mặt chị ấy đâu là gọi con chó hoang. Chị ấy cắn răng chịu đựng chờ người đàn ông của chị ấy nhận vợ nhận con nhưng người đàn ông ấy đã không dám nhận, thế là chị ấy phải bế con đi khỏi làng. Chị ấy cũng gan dạ lắm, chứ mà chị thì có lẽ chị cắn lưỡi mà chết mất. - Cu, ánh mắt cu nhìn chị sao thế? Cu muốn nói gì với chị à? Hay là cu buồn tiểu. Thị lấy bô hứng vào nhưng con giống con má nó không tiểu. Nó cất cao đầu gật gù. Thị nhìn đăm đắm vào nó như bị thôi miên. Nó đã lớn bổng lên mập mạp như củ dong giềng. Người thị bỗng nóng bừng. Thị thấy máu trong người thị chảy rào rào. Thị lại thấy hai cái tý thị co tròn lại, phía cửa mình nước đang ào ra. Thị bỏ chạy ra khỏi phòng. Thị ngồi xuống nghế và thấy da mặt mình tê bần. - Cu, cu tiểu đi. Được rồi. Hôm nay ngoan. Cu đừng trêu chị nhé. Cu làm chị tủi thân lắm đấy. Chị cũng là con người, cũng khao khát nhớ nhung. Hồi chị ở nhà thi thoảng có cán bộ phụ nữ huyện về nói chuyện. Họ bảo con người khác con vật là phải có lý trí. Có lý trí thì sẽ chiến thắng dục vọng. Ban đầu chị cũng tin nhưng sau thì chị chả tin. Chị đẻ 3 con rồi, không muốn đẻ nữa. Chị với chồng chị có lý trí rất cao là không đẻ nữa thì không được chửa nữa. Thế mà chị vẫn bị chửa. Chửa rồi thì phải đi kế hoạch tội lắm. Chị với chồng chị không chiến thắng được dục vọng. Giờ cu cứ trêu chị thế là không được đâu đấy. Thị nghĩ hay là lại đóng bỉm vào cho ông chủ. Chứ cái cách con giống con má của ông chủ nó cứ cất cao đầu thế kia thì thị không thể chịu đựng được. Thị cũng chả hiểu sao, cứ thấy thị là nó lại cất cao đầu. Ừ thì thị cũng biết là ông chủ đang dần khỏi bệnh. Ông chủ đã có cảm giác ở một số bộ phận. Nhưng sao lại không ở các bộ phận khác mà lại ở cái bộ phận nhạy cảm này cơ chứ. Nó làm cho thị rất khó làm việc. Như hôm trước ấy, khi tắm cho ông chủ, lúc chị kỳ cọ đến cái chỗ nhạy cảm đó, nó cứ phồng to nên rồi cứng nhắc. Thị đã đỏ mặt tía tai chạy ra khỏi nhà tắm. Nhưng đến khi quay lại để tắm tiếp cho ông chủ thì thị đã không cưỡng được cảm xúc của chính thị, khiến thị cứ nắm chặt tay vào cái con giống con má. Cái chết nữa là đêm ngủ thì thị lại mộng mị. Thị nằm mộng có một người đàn ông hôn thị khiến cho cảm xúc thèm khát của thị đang ngủ im bật dậy. Thị nhớ rõ mồn một giấc mơ tối qua là thị đã nắm chặt lấy con giống con má để đưa nó vào người thị mà không được. Thị tỉnh giấc trong ngất ngây của sự khát thèm. Hay là đóng lại bỉm cho ông chủ? Từ lâu rồi bà chủ đã không còn phải mua bỉm cho ông chủ nhưng vẫn còn một bịch chưa dùng đến. Đóng bỉm thì dễ thôi. Thị đã quá quen với thao tác này rồi. Chỉ có điều khi bà chủ hỏi tại sao thì biết nói thế nào. Còn... cái chính là thị thương ông chủ. Đã tháo bỏ được sự khó chịu bấy nay, giờ lại đeo vào thì khổ quá. À, thị đã có cách. Thị sẽ không xoa bóp cho nữa, có nghĩa là thị sẽ ít tiếp xúc thôi. Thời gian quả là dài với thị. Bây giờ đã là thu rồi. Việc tắm rửa cho ông chủ cũng không phải ngày nào cũng cần. Lại nhờ có thị huấn luyện nên ông chủ đã đi tiểu đi tiện chủ động. Thành ra thị rỗi việc. Mà cái sự rỗi việc bây giờ nó khác cái lúc thị mới đến, là chỉ nhớ chồng nhớ con rồi khóc. Cái sự rỗi việc bây giờ nó lại làm thị nghĩ đến một cái. Một cái, nó đã như nỗi ám ảnh thị. Nó ám ảnh thị ghê gớm. Nó đẩy cảm giác của thị thành sự thèm khát. Thị thèm khát. Thời gian như kẻ đồng loã với thị. Nó hối thúc thị. Thị mộng mị đi vào phòng ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như thúc vào tim thị. Cái ánh mắt mừng rỡ. Thị nhìn sâu vào cái ánh mắt mừng rỡ đấy rồi thị trút bỏ áo quần của thị. Thị lật chiếc khăn mỏng đắp trên người ông chủ. Con giống con má đang cất cao đầu chờ thị. Như giấc mơ đêm hôm nào thị cần lấy nó đưa vào cơ thể thị. Thị đã không phải thức giấc trong sự thèm khát cháy bỏng nữa. Thị đã thoả mãn. Thị không mộng mị nữa. Thị sợ hãi tột cùng. Thị vội vàng xả nước vào bồn. Thị mang ông chủ vào tắm rửa sạch sẽ, rồi thị cũng tắm rửa. Thị xả nước và xát rất nhiều xà phòng vào thân thị. Thị kỳ cọ thật mạnh. Thị muốn lột da thị. Xong xuôi thị nhìn đồng hồ. Còn phải 4 giờ nữa thì bọn trẻ mới về và bà chủ thì 6 tiếng nữa. Thị suy nghĩ về việc thị vừa làm. Đồi bại, thị rủa mình. Sao lại tệ hại đến vậy, cái thứ đàn bà xấu xa. Thị cũng chỉ biết rủa mình đến thế thôi. Thị ân hận vì mình đã làm cái việc xấu xa ấy, thị khóc. Thị khóc nhiều lắm. Khóc mụ mị cả người. Khóc đến muốn chết thì thị sợ. Thị sợ phải chết nơi đất khách quê người. Thị sợ chết thì không ai mang tiền về cho chồng thị xây nhà và các con thị không có ai chăm sóc. Thế là thị ngưng khóc nhưng tim thị vẫn đau ràn rạt. Thị muốn nói, thị muốn được chia sẻ, thị muốn thanh minh. ở cái đất này thì có ai nghe thị nói đây, vả người ta có nghe thì người ta có hiểu nổi thị nói gì không? Thị đã là người câm suốt từ khi đặt chân đến đất này. Chỉ có một người thị có thể chút bỏ những tâm sự. Người đấy có nghe được thị nói gì không, thị không cần biết. Thị cần phải nói với người ấy để trút bỏ nỗi lòng. Ông chủ đang thức, ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Thấy thị bước vào bèn hướng ánh mắt về phía thị. Lại cái ánh mắt mừng rỡ. Thị nhìn vào mắt ông chủ. Và chị đã nhận thấy mắt ông chủ trong veo như mắt trẻ con. Sao cái sự hớn hở kia nó lại giống cái ánh mắt của thằng Đức khi nó vén áo thị lên để bú thị. Trời ơi, sao mà nó giống vậy. Thị bật khóc nức nở. Thị úp mặt vào ngực ông chủ khóc ồi ồi: Cu ơi, chị có tội với cu quá. Chị còn mặt mũi nào mà nhìn các con chị, nhìn chồng chị nữa đây. Chị không muốn sống nữa, nhưng chị cũng không thể chết. Chị cũng không thể biết được tại sao chị lại hành động như thế. Cu có hiểu được cho chị không? Chị cũng là con người mà. Chị sợ bà chủ biết lắm. Bà chủ mà biết thì bà đuổi chị, không trả chị tiền nữa thì chị chết mất. Chị chỉ còn mấy tháng nữa là được về nhà rồi. Cu ơi cu đừng khinh chị nhé. Chị đến nhà cu làm việc đã gần 20 tháng, là gần 600 ngày, chị chỉ có cu là bầu bạn. Vui sướng, buồn đau chị chỉ biết thổ lộ cho cu. Chị nói cười cũng là cho cu. Nếu không có cu chị không biết là chị sẽ như thế nào. Chị biết cu đang dần khỏi bệnh rồi đấy. Cứ yêu thương chăm sóc cu như chị đã yêu thương chăm sóc cu thì chỉ ít lâu nữa là cu sẽ khỏi bệnh thôi. Khi nào chị sắp về chị sẽ nói với trung tâm để họ nói lại với bà chủ. - Cu ơi, cu tha lỗi cho chị nhé, chị lại phải đóng bỉm lại cho cu thôi, chứ cu cứ trêu chị thế thì chị lại khổ mất. Chị... Đột nhiên thị ắng tạnh. Có cái gì đang bò trên tóc thị. Thị lặng im để nghe ngóng. Cái gì đang bò trên tóc thị. Cái gì? Thị đưa tay lên tóc để tóm con gì đang bò trên tóc thị. Thị đụng vào một bàn tay. Bàn tay đang ngọ nguậy trên tóc thị. Thị nắm chặt lấy bàn tay đó rồi ngửng đầu reo lên: - Ôi, tay cu à? Tay cu cử động được rồi à? Đấy chị biết ngay mà, cu sẽ khỏi bệnh. Cu khỏi bệnh rồi. Tay cu cử động được rồi mà. Hay quá. Cu giỏi quá. Để chị thơm cu một cái nào. Thị áp mặt thơm vào má ông chủ. Ông chủ đã cảm nhận được cái hôn của thị, người ông chủ run lên. Và điều kỳ diệu hơn tay ông chủ đã nắm được tay thị. - Ô, cu nắm được tay chị đấy à? Tuyệt vời quá. Tuyệt vời quá. Thế thì chị thơm cu một cái nữa nào. Sao thế? Sao cu khóc. Nước mắt ướt cả má chị này. Để chị lau nước mắt cho nhé. À, cu cảm động đấy mà. Cu khỏi bệnh nhanh lên rồi về quê chị chơi nhé. Quê chị toàn những người như chị thôi. Nhất mực vì chồng con nhưng cũng biết thương người. Cu khỏi bệnh nhanh lên rồi về quê chị chơi. Tuyệt vời quá. Tuyệt vời quá. Thị đâu biết rằng sấm sét đổ xuống đầu thị. Cái máy nhỏ, có cái lỗ nhỏ mà mấy hôm trước bà chủ gắn trên tường phía đầu gường của ông chủ, mà thị cứ tưởng là cái máy xua muỗi cho ông chủ, thì ra là một cái cam ra. Nó đã ghi lại trung thực nhất cử nhất động của thị mà thị đâu có biết. Nửa đêm hôm đấy thị đã bị bà chủ túm tóc lôi dậy. Bà chủ vừa khóc vừa hét lên be be và đấm đá thị túi bụi. Đến mờ sáng thì thị bị công an đến giải đi. Thị bị nhốt vào trại giam mà không hiểu mình đã mắc tội gì? Cho đến một tuần sau có người của công ty đến nói cho thị biết thị đã phạm tội quấy rối tình dục ông chủ. Thị sẽ bị ra toà và có thể bị tù giam đến 5 năm. Thị đã ngất xỉu khi nghe tội danh của mình. Sau đó thì thị đã tìm cách tự tử. Bị canh nghiêm ngặt nên thị đã tự tử không thành. Rồi thị bình tĩnh lại để nghĩ. Thị không thể chết một cách oan uổng như vậy. Nhất là sau khi được một luật sư đến gặp, nói sẽ bào chữa cho thị. Ông luật sư còn nói, chính thị sẽ phải tự bào chữa cho chính thị. Đó là cách tốt nhất. Ngày mai thị sẽ phải ra toà. Thị đang nghĩ rất nung nấu cách bào chữa cho mình. Thị đã sắp xếp cuộc đời thị thành một câu chuyện có đầu có cuối một cách dễ hiểu. Còn cái làm thị suy nghĩ và cân nhắc là thị có nên yêu cầu gia chủ đưa cuốn băng kia ra không? Nếu đưa cuốn băng đó ra công khai thì hình ảnh thị trần truồng ngồi lên trên ông chủ sẽ bị phơi bày trước thiên hạ. Điều đó thật là khủng khiếp. Nhưng nếu cuốn băng đó được đưa ra thì thiên hạ cũng sẽ thấy được sự yêu thương của thị đã làm cho ông chủ đang dần khỏi bệnh. Thiên hạ sẽ thấy được bàn tay ông chủ vuốt tóc thị, nắm tay thị và nhưng giọt nước mắt của ông chủ như thế nào? Một căn bệnh mà y học đã phải bó tay, vậy mà thị lại làm được. Những giải thưởng cao quí của nhân loại đã được trao cho những người tìm ra cách chữa các bệnh hiểm nghèo là gì? Không, thị không cần giải thưởng cao quí đó. Thị chỉ muốn về với chồng với con. Thị chỉ muốn đừng trừ tiền công lao động mà thị tích cóp được. Thị chỉ muốn thiên hạ hiểu cho được những nỗi thống khổ của những người đàn bà nghèo phải rời bỏ quê hương đi làm ăn. Thị chỉ muốn thiên hạ hiểu cho những nỗi thống khổ của đàn bà. Thị chỉ muốn thiên hạ nhận ra sự tốt đẹp của đàn bà để tha thứ lỗi lầm cho họ. Thị sẽ làm tất cả những điều thị nghĩ. Thị sẽ yêu cầu gia chủ mang cuốn băng ra toà. Thị biết nếu như vậy thì một lần nữa thị đã mang trọng tội với chồng và hai con gái thị. Lời nói đã rất khủng khiếp rồi, giờ lại là hình ảnh trực diện thế này. Thị đã hiểu được một điều, thế giới mênh mông nhưng có một thứ xuyên suốt truyền đi nhanh lắm. Cái thứ xuyên suốt đó là cái gì thì thị không biết được. Cái làng quê của thị cũng không thể nằm ngoài cái sự xuyên suốt đó. Nhất là cái làng quê nghèo của thị vẫn có những phụ nữ đi ra nước ngoài làm ăn như thị. Thị lại còn nghĩ được những điều to tát chứ. Trên thế giới mênh mông có nhiều làng quê của các dân tộc khác cũng ra nước ngoài làm ăn như thị. Họ là những phụ nữ nghèo. Thị muốn nói thật to trước toà một câu nói mà mọi người đều có thể hiểu. Thị cố nhớ lại cái câu tiếng Anh cô giáo đã dạy cho thị trước khi ra nước ngoài: I am: Tôi là. I am: Tôi là. I am đàn bà. Đúng rồi I am Đàn bà, thị sẽ nói câu đó thật to trước toà Rất thanh thản thị thiếp đi. [/FONT]
Hoa pằng nảng rơi rơi Nguyễn Phú - Dúa ơi, Dúa à, mày lại đi đâu rồi? Biết là tiếng mẹ nhưng Dúa vẫn không trả lời. Mẹ cũng biết Dúa ra đấy mà vẫn cứ gọi thôi. Phía sau Dúa không xa bọn con trai, con gái Tày, Nùng say sưa trong hội tung còn. Bọn nó cười đùa thật vui, chẳng như Dúa đang héo từng khúc ruột. Mấy mùa xuân rồi Dúa cứ đứng như thế. Mẹ Dúa rối bời ruột gan nhưng chẳng can được Dúa, chỉ có con Súa, em gái Dúa, cứ ra kéo Dúa về. Bao giờ nó cũng lúng búng trong miệng: “Chị à, phải thương mẹ chứ, đi về thôi!”. Bây giờ đang là mùa xuân. Ở cái bản Há Già heo hút này người ta tổ chức hội xuân vui lắm. Bọn con trai con gái hát iếu, hát cọi, thổi khèn, kèn lá... rồi từng đôi từng đôi dắt nhau đi chơi. Người già, người trẻ, cả trẻ con nữa đều có thể uống rượu. Hoa đào hoa mận hoa lê nở bừng lên. Lũ chim rừng líu lo gọi bạn tình. Nhưng dường như Dúa không nhìn thấy gì, không nghe thấy gì. Lòng Dúa đang nghĩ về một nơi xa lắm, ở đó có Phừ. Tết này Phù có thổi khèn nữa không nhỉ? Phừ không thổi khèn thì thật tiếc, nơi đó sẽ không có mùa xuân... Gốc pằng nảng nơi Dúa đang đứng đây bao năm Phừ và Dúa đã ngồi. Phừ đã bảo: “Bao giờ cây pằng nảng này không còn nở hoa thì Phừ mới không thổi khèn, không ngồi với Dúa nữa”. Cây pằng nảng to đến mấy người ôm không hết. Mỗi dịp xuân về cây như một người khổng lồ với hàng trăm cánh tay thô ráp, khô gầy đang cầm những đốm lửa nho nhỏ vươn lên cùng mây trời. Như khao khát dâng hiến sức xuân, sắc xuân cho đất trời. Những nhành cây nho nhỏ giống hàng ngàn ngón tay như muốn kéo tuột những đám mây đang lơ lửng trên cao xuống đất. Những bông hoa có một sắc đỏ đến mê hoặc lòng người. Hoa lìa cành về với đất vẫn da diết, tươi roi rói một màu máu. Có người bảo đó là nước mắt, là máu trong tim của những người đàn bà... Người già nhất ở bản này cũng không ai biết nó có từ khi nào. Dúa chỉ nghe kể rằng những người Tày đến đây đầu tiên, họ thấy cây pằng nảng và khoảng đất đẹp nên dừng lại lập bản. Người Tày lập bản thì người Nùng, người Mông cùng về quần tụ. Ba dân tộc rất yêu thương nhau, coi nhau như anh em một nhà. Ngày tết mọi người kéo đến nhà nhau uống rượu đến say mới thôi. Dúa lặng nhìn về phía dãy núi Pư Khảo. Những đám mây trắng muốt mỏng tang đang như ôm ấp ve vuốt những đỉnh núi nhọn hoắt. Một bông pằng nảng rơi trúng Dúa, không làm Dúa thấy đau mà êm êm ở đỉnh đầu. Ngước mắt nhìn lên Dúa gặp một vầng đỏ chói ngời, càng nhức nhối trong lòng Dúa những kỷ niệm... Ngày ngày tháng tháng năm năm. Đời nối đời... Dưới gốc cây pằng nảng này đã có biết bao nhiêu người phải đứng như Dúa nhỉ? Dúa đâu có thể biết được. Có lẽ chỉ cây pằng nảng biết và những ngọn núi kia biết... Người đàn bà có nước da trắng mịn màng, đôi mắt u sầu bế đứa con chưa đầy ba tháng tuổi trên tay. Làn da người đàn bà đã chuyển thành tái xám vì mưa lạnh hay vì nỗi đau trong lòng. Nước mắt người đàn bà đang chảy vào trong. Đứa con trên tay cứ khóc ngằn ngặt. Nhưng mẹ nó dường như không biết đến điều đó. Bố nó vừa bị người nhà quan châu bắt đi rồi. Bao người dân ở cái vùng cao này như bầy ngựa trong chuồng nhà quan châu thôi, họ bắt đi lúc nào chả được. Đã mấy mùa hoa nở người đàn bà đứng dưới gốc pằng nảng này nhìn về phía dãy núi Pư Khảo mà chẳng thấy gì nữa, chỉ thấy mắt mình cứ mờ đi, mái đầu thêm bạc. Người ta bảo chồng bà đi mở đường cho quan châu đã bị rơi xuống vực. Người đàn bà trở về ôm đứa con gái bé nhỏ và ru nó bằng những lời ứa máu. Người đàn bà đó là cụ ngoại Dúa. Mùa xuân ấy bản Há Già thật nhộn nhịp. Nhộn nhịp bước chân người già. Hối hả bước chân thanh niên. Cuống cuồng, líu ríu bước chân phụ nữ. Bản ngập tràn bóng áo xanh bộ đội. Người ta lấy Há Già làm nơi đưa tiễn những chàng trai ở tất cả các bản quanh đó lên đường đi chiến đấu. Bản Há Già đi đông nhất, những năm người. Bản tổ chức uống rượu, thổi khèn, hát iếu, hát cọi thâu đêm suốt sáng. Có đến hai đêm liền như thế. Đến sáng ngày thứ ba thì các anh bộ đội rời bản. Người già trong bản lo thì lo lắm nhưng vẫn vui vẻ để con cháu lên đường. Cuộc đưa tiễn có không biết bao nhiêu nước mắt đàn bà. Nước mắt hòa vào triệu triệu hạt mưa, thấm xuống đất, tan cùng nước suối trôi đi. Đoàn bộ đội đi rồi, có một người đàn bà địu đứa con sau lưng ra đứng dưới gốc pằng nảng nhìn theo bóng họ khuất sau dãy núi. Người đàn bà không nhớ ra đấy đứng ngồi mong đợi đã mấy mùa xuân. Chỉ biết đã ngồi mòn cả một hòn đá đợi cho đến ngày những người đàn ông năm đó trở về. Nhưng trong số ba người trở về không có người đàn ông của bà. Những đêm đông người đàn bà ôm đứa con gái bé bỏng vào lòng ru nó bằng những lời ru ứa máu. Người đàn bà đó là bà ngoại Dúa. Vào một buổi chiều xuân hơn mười năm trước cũng có một người đàn bà đứng dưới gốc pằng nảng này tiễn chồng. Chồng bà cùng một người bạn dắt hai con ngựa thồ mang mật ong, tam thất, thớt nghiến... xuống chợ vùng xuôi để bán, hẹn gần tết sẽ về mua thật nhiều quần áo đẹp cho vợ và hai đứa con gái. Gần tết, qua tết... người đàn bà chẳng thấy gì ngoài những đám mây cứ tan ra theo gió bay mất hút sau dãy núi. Hai người đàn ông đó không trở về. Có người cùng bản đi chợ vùng xuôi nói họ đã đi theo hai người đàn bà khác. Người đàn bà không tin điều đó là sự thật nhưng thời gian và sự bặt tin của người chồng đã bào mòn niềm tin, sự hy vọng và mùa xuân sau bà không ra ngóng nữa. Những đêm dài tê tái bà ôm hai đứa con nhỏ vào lòng, nước mắt thấm ướt cả tóc chúng nó. Bà lo sợ cho tương lai của những đứa con. Năm tháng cứ trôi đi cùng với sự lo lắng. Người đàn bà đó là mẹ Dúa... Dúa và Phừ quen nhau thật tình cờ. Chiều hôm ấy nghỉ học, đi cắt cỏ ngựa về qua đám nương nhà mình Dúa thấy hai con trâu nhà ai đó to như hai tảng đá lớn, đen bóng hùng hục ăn những cây ngô non mơn mởn. Bụng chúng đã no năng vậy mà khi Dúa lên tiếng đuổi chúng vẫn lì lợm không chịu đi. Tức quá! Giận quá! Sợ cặp sừng cong, nhọn hoắt của con trâu đực nhưng Dúa vẫn xông đến tóm lấy đoạn dây thừng ở cổ nó. Dúa dồn hết sức hai con trâu mới chịu nhích từng bước. Kéo chúng đi được một đoạn Dúa quá mệt. Dúa định ngồi nghỉ một lúc thì có một người chạy từ đằng xa đến. Thì ra là Phừ học ở lớp 5 cùng khối với Dúa do cô Thơm chủ nhiệm. Nhà cậu ta ở bản bên.Dúa ngúng nguẩy, lườm Phừ một cái rồi cúi gằm mặt dắt trâu đi, kệ cho Phừ năn nỉ. Biết mình sai nên cậu ta không dám làm già, đôi mắt cậu như có nước. Không biết vì sợ Dúa bắt trâu hay ân hận vì đã mải chơi. Nhưng không phải Phừ mải chơi. Phừ bảo bài toán nó làm Phừ quên hai con trâu, rồi đưa ra trước mặt Dúa một cuốn sách. Hai con trâu như hiểu tình cảnh của chủ nó, được nước không chịu nhích thêm một bước. À, thì ra chủ và trâu nhà các người cứ lì ra phải không? Mắt Dúa lại gặp mắt Phừ. Dúa thấy tồi tội. Dúa cũng không dắt được trâu đi đành phải thả cho Phừ. Nhưng Dúa xót công sức của bà, của mẹ nên vẫn còn thấy ghét đứa để trâu ăn ngô... Vậy mà những ngày sau hai đứa lại thân nhau. Thỉnh thoảng Dúa đi cắt cỏ ngựa lại gặp Phừ đi chăn trâu, lần nào Phừ cũng mang sách đi học. Phừ chăm học thật đấy. Dúa thấy mên mến Phừ vì Phừ thật hiền. Có lúc Phừ xin đi cắt cỏ giúp Dúa. Nhiều ngày Dúa thả đôi ngựa non, rất đẹp nơi Phừ chăn trâu. Phừ thấy đôi ngựa bảo: “Vợ chồng nó đẹp đôi nhỉ, thích thật đấy. Ước gì mình với Dúa sau cũng được thế này”. Dúa chưa hiểu vợ chồng là gì nhưng nghĩ được gần gũi với Phừ suốt ngày như đôi ngựa thì thấy thinh thích. Năm học đó Phừ và Dúa cùng lên lớp 6. Hai đứa đi học chung trường và lại được xếp vào một lớp, càng thân nhau hơn. Đến trường Phừ phải đi qua nhà Dúa nên hôm nào Phừ cũng đến gọi và chờ Dúa cùng đi. Hai đứa vừa đi vừa ríu ra ríu rít như đôi chim non. Buổi được nghỉ học Dúa đi cắt cỏ ngựa, Phừ chăn trâu. Hai đứa mang vở đi học chung. Được Phừ chỉ giúp những bài toán khó, khi nghĩ về cái chữ, cái số Dúa không thấy ong ong ở đầu nữa mà thấy chúng biến hóa kì ảo, thật thích. Phừ hay động viên Dúa: - Dúa học giỏi sau này hai đứa mình cùng xuống huyện học nhé! - Xuống huyện thì xa lắm, nhớ bản, nhớ bà, nhớ mẹ, nhớ cái Súa lắm! Nhưng có Phừ cùng đi thì Dúa sẽ đi. Năm cuối cấp hai. Phừ vẫn đến rủ Dúa đi học nhưng hai đứa không còn nắm tay nhau nữa và thường đi cách nhau một khoảng. Có lúc Dúa thấy má mình nóng bừng lên khi Phừ nhìn. Cái nhìn của Phừ lạ lắm! Tại sao thế nhỉ, tại sao Dúa không còn dám nhìn lại Phừ như trước kia nữa? Mắt Phừ cứ như có lửa, có rượu ấy. Gần hết năm học đó, bà Dúa ốm nặng, suốt ngày bà chỉ nằm trên giường kêu rên. Rồi ho. Nhiều đêm những cơn ho của bà kéo dài đến sáng. Ho như xé phổi. Ho như rách cả cuống họng. Mấy mẹ con Dúa sợ lắm. Cô y tá xã đến phát thuốc và tiêm cho bà. Bà vẫn không khỏi ho. Bà nằm nguyên như thế một chỗ, không thể đi lại được. Bà như một chiếc lá treo trên cành cây rừng sắp về với đất rồi. Hình như vẫn còn một chút nhựa nào đó nên chiếc lá vẫn dính lại một cách mong manh, chưa chịu lìa cành. Mẹ Dúa suốt ngày đêm phục dịch bên bà nên người mẹ gầy rộc đi. Nhìn bà, nhìn mẹ, lòng Dúa đau lắm. Con Súa em Dúa còn bé chưa biết gì, chưa làm được gì. Mà nó lại là đứa bé hay nũng nịu, nó thích cái gì là đòi bằng được. Có lẽ Dúa phải nghỉ học giúp mẹ chăm bà thôi. Hôm Dúa bỏ học ở nhà mẹ đã khóc không cho Dúa làm thế. Hôm sau cô giáo chủ nhiệm và Phừ đến. Thế là Dúa lại đi học. Thôi, Dúa cứ đi để học xong lớp 9 này. Cái bệnh vẫn mãi bám theo bà như con ma nhập vào người. Cô y tá bảo không phải ma đâu. Bà Dúa bị liệt, người già thường hay bị thế. Năm học mới đến rồi nhưng Dúa sẽ không thể đi học trường huyện cùng Phừ được. Dúa đi rồi ai sẽ lo cho bà, ai sẽ giúp mẹ đi nương, giúp mẹ nuôi ngựa nuôi lợn nuôi gà đây. Cô giáo và Phừ lại đến động viên, cả bác trưởng bản cũng đến bảo Dúa đi học mà Dúa đã quyết thế rồi. Những ngày Phừ chuẩn bị xuống huyện học trăng sáng quá. Trăng như muốn dẫn đường cho Phừ đến nhà Dúa được dễ hơn. Không đêm nào Phừ không đến. Hai đứa lại rủ nhau ra gốc cây pằng nảng ngồi. Dúa mang những sợi lanh ra tước từng sợi từng sợi nhỏ tí. Phừ ngắm trăng rồi Phừ thổi khèn. Phừ thổi khèn hay lắm. Tiếng khèn của Phừ làm những đêm liên hoan văn nghệ ở trường vui nhộn mà mênh mang, mung lung, kì ảo. Bao đêm Dúa nghe thấy tiếng khèn của Phừ tha thiết, chập chờn trong giấc ngủ. Nhưng lúc này Dúa đang buồn. Dúa sắp phải xa Phừ rồi. Ông trăng như ngơ ngẩn bởi tiếng khèn của Phừ. Trên mặt Dúa trăng rười rượi. Những giọt trăng đọng lại thành từng dòng trong mắt Dúa, trào ra lăn trên má, mằn mặn ở môi. Phừ không khèn nữa, đau đáu nhìn vào mắt Dúa. Phừ thấy nhói lên từ trong sâu thẳm lòng mình. Ngồi xích lại Dúa, Phừ nắm lấy bàn tay trắng muốt, thon nhỏ, mềm mại của Dúa. Dúa để yên tay mình trong bàn tay chai sần, nóng hổi của Phừ. Bất ngờ Phừ ôm, hôn lên má Dúa. Dúa thấy người nóng ran nhưng vội đẩy Phừ ra. Phừ lấy áo lau nước mắt cho Dúa. Xong rồi, Phừ thì thầm: - Dúa à, đừng buồn nữa! Phừ đi học rồi tuần nào Phừ cũng về với Dúa mà. Dúa im lặng, Dúa tin lời Phừ lắm vì đã bao giờ Phừ nói dối đâu. Nhưng tại sao lòng Dúa thấy thắc thỏm và lo sợ thế này. Dúa không thể hiểu được! Phừ xuống huyện học được nửa năm thì bà Dúa mất. Hàng tuần Phừ đều về bản và qua nhà Dúa. Hai đứa ríu rít bên nhau. Nhiều đêm hai đứa ra gốc pằng nảng ngắm trăng, thổi khèn, tước lanh. Những ngày xuân là ngày vui nhất ở bản này và là những ngày vui nhất của Dúa. Đó là thời gian Dúa được cùng Phừ đi chơi khắp bản, đi vào rừng hái hoa, nghe tiếng chim, tiếng suối. Phừ đã trở thành một chàng trai cao lớn vạm vỡ. Tấm lưng của Phừ to, vững chắc như cây lim, cây nghiến. Bắp tay cuồn cuộn. Ngực gồ lên như thớt gỗ tốt. Đôi mắt Phừ lúc nào cũng như có lửa. Và Phừ có một bộ râu rất đẹp, dù đã được cạo nhưng nó vẫn xanh đen, thi nhau đâm ra tua tủa. Nhiều cô gái mơ ước được Phừ cầm tay dắt đi chơi. Mọi người bảo Phừ đi bên Dúa rất đẹp đôi. Ai cũng biết Dúa đẹp, dịu dàng nhất bản này, nhất vùng này. Thân hình Dúa chắc lẳn, thon thả. Dúa bước đi mềm mại như cây lanh đong đưa trong gió. Mái tóc dài đen mượt có ủ trăm mùi hương mê hoặc. Đôi mắt đen lay láy, trong veo như có hai giọt nước ở trong. Môi đỏ thắm như màu đỏ của những bông pằng nảng. Biết Phừ và Dúa quý nhau nhưng nhiều chàng trai Mông, chàng trai Tày vẫn ngày đêm tơ tưởng. Nhiều gia đình nhờ người đến nói chuyện với mẹ Dúa, mong được mang rượu trắng, gà trống thiến và bạc trắng đến nhà Dúa. Mẹ vẫn chưa dám nhận lời của ai. Mẹ cũng thương Dúa và Phừ lắm. Có lần mẹ bảo với Phừ: “Phừ à, mày có thương con gái ta thì bảo bố mẹ nhờ người đến đây. Bằng tuổi con Dúa mấy đứa con gái ở bản này có chồng con cả rồi”. Phừ ngượng nghịu, đỏ bừng mặt, rứt đầu rứt tai trông đến là thương. Phừ nói với mẹ Dúa: “Bác ơi, cháu và Dúa thương nhau thật mà. Nhưng bố mẹ bảo cháu phải học cái chữ cho thật giỏi đã. Cháu muốn học để đi làm sau này Dúa không phải sống với cái khổ, cái đói. Nhất định bố mẹ cháu sẽ mang rượu trắng, gà trống thiến đến nhà ta”. Năm đó cả Phừ và Dúa đều đã mười tám tuổi. Phừ sắp hết lớp 12... Gia đình Phừ đột ngột chuyển về thị xã, nghe nói bố Phừ đi làm ăn xa đã mua được nhà ở dưới đó. Nhà Phừ thành người phố rồi. Đường về bản thành xa rồi. Lẽ ra phải vui cho Phừ nhưng sao lòng Dúa thấy trống rỗng như căn nhà hoang bị gió đông dồn thổi thế này. Xuân năm đó Phừ lên thăm lại bản và gặp Dúa. Phừ thực sự đã trở thành một chàng trai phố. Cái quần bò Phừ mặc nhăn nhúm, hai cái túi to tướng trước vế đùi, có đính cái xích sắt kêu lẻng xẻng theo bước đi. Tóc Phừ chải từng chỏm bết lại, dựng ngược. Dúa chưa nhìn thấy trai bản để tóc như vậy bao giờ... Dúa thấy hơi là lạ với người mình yêu nhưng cái nhớ, cái thương, cái tình yêu trong Dúa bùng lên mạnh mẽ. Nó như ngọn lửa đốt hết những cái lạ lẫm nơi Phừ. Nơi trái tim Dúa, trong mắt Dúa, Phừ vẫn là Phừ của ngày nào. Hai đứa dắt nhau đi vào khe núi Pư Khảo tâm tình. Suối réo rắt, chim gọi bạn tình từng hồi thao thiết, thúc giục, hương hoa rừng như xui khiến, mời gọi. Phừ dắt tay rồi đặt Dúa ngồi lên một thảm cỏ mượt như nhung. Phừ nhìn Dúa. Cái nhìn như muốn thiêu, muốn đốt Dúa thành tro tàn, muốn xé Dúa thành trăm mảnh... Như một con mãnh hổ đói Phừ chồm lên Dúa. Cánh tay Dúa yếu ớt rồi trở nên mềm mại, xoắn xuýt lấy tấm lưng, thân thể Phừ như những sợi dây leo quấn quanh thân cây nghiến cổ thụ. Núi như chao đảo. Cây rừng như ngả như nghiêng... Dúa bật kêu bởi một nhịp sóng quá mạnh của Phừ. Thảm cỏ in dấu. Dãy núi ghi lại tiếng kêu chấm dứt đời con gái của Dúa... Dúa thành đàn bà như bao cô gái trên cao nguyên sau những mùa tình. Nhưng chỉ khác sau đó không lâu gia đình chàng trai ấy sẽ mang lễ vật đến nhà cô gái. Còn Dúa, Phừ bảo Dúa cứ chờ. Học xong trường sư phạm Phừ sẽ quay trở lại bản Há Già này dạy học, khi đó sẽ mang rượu trắng, gà trống thiến đến nhà Dúa. Rồi Phừ đi... Mỗi buổi chiều tàn, tiếng gió núi như vón thành từng cục đá lạnh toát bắn vào tai, vào sâu trong tim. Mẹ thường nhìn Dúa bằng đôi mắt xám bạc, buồn hoang dại. Đêm đêm mấy chàng trai vẫn bền bỉ đứng bên hàng rào đá nhà Dúa thổi khèn, kèn lá. Những lời tỏ tình da diết, cháy bỏng... Dúa không thể nghĩ đến một chàng trai nào khác nữa rồi nên Dúa chỉ biết chờ, biết hy vọng thôi. Nhiều đêm Dúa không ngủ được, mẹ cũng trằn trọc, lăn đi lăn lại theo nhịp thở nặng nhọc, não nuột. Hai mẹ con ôm nhau mà trong lòng lạnh buốt. Chiếc giường nhỏ tí, một người ngủ thì vừa, hai người nằm thì chật. Mẹ bảo ông bà ngoại lấy nhau thì đóng cái giường này. Phong tục người Mông thế. Vợ chồng phải ngủ chung trên một cái giường chật không phải vì thiếu tre, thiếu gỗ mà để khi ngủ phải ôm nhau, nếu không ôm nhau thì sẽ rơi xuống đất. Vợ chồng giận nhau vẫn phải ôm nhau mà ngủ. Cái giường làm cho cái giận hờn mau qua, vợ chồng mau làm lành. Ông bà, bố mẹ Dúa đều đã nằm trên cái giường này. Cái cảm giác nơi khe núi lại xâm chiếm lấy toàn thân Dúa, đè ụp lên người Dúa. Dúa mong mỏi một ngày không xa trên chiếc giường này Dúa sẽ được nằm gọn trong cánh tay chắc khỏe của Phừ và mơ về những đứa con xinh đẹp. Dúa ấp mặt vào ngực mẹ. Đôi bầu ngực đã nuôi lớn chị em Dúa, giờ đây teo tóp như hai quả mướp khô trên giàn. Nước mắt Dúa thấm qua làn áo mỏng của mẹ. Nước mắt mẹ chảy tràn, ướt cả mớ tóc dài đen mượt của Dúa. Mùa đông trên cao nguyên đá này thường đến sớm nên mùa xuân cũng đến sớm. Đã ba mùa xuân rồi, Phừ không về bản Há Già nữa. Ba mùa xuân. Không biết bao ngày Dúa ra gốc pằng nảng này đứng nhìn về phía dãy núi Pư Khảo. Không biết bao nhiêu nước mắt Dúa đã thấm những vạt cỏ ở đó. Giờ nhà chỉ có hai mẹ con, Dúa thấy thương mẹ lắm. Dáng mẹ đã cong cong khi đi trên nương, tóc mẹ đã bạc nhiều rồi. Đám con trai ngày trước hay săn đón giờ không còn ai đến thổi khèn bên hàng rào đá nhà Dúa nữa. Có lúc Dúa thấy mình như bị vứt xuống một vực sâu hun hút, mịt mờ. Dúa vẫn cứ chờ, vẫn cứ hy vọng. Dúa không thể tin những lời người ta nói. Họ bảo Phừ đi dạy học ở một xã biên giới phía Tây của tỉnh, một lần đi xe máy xuống bản Phừ đã chết vì bị rơi xuống vực. Người thì bảo Phừ bỏ dạy học đi đào vàng mãi tận bên tỉnh Sơn La, Lai Châu gì đó. Rồi có người lại bảo bây giờ nhà Phừ giàu lắm. Phừ dạy học ngay thị xã và đã lấy một cô giáo người Kinh rất xinh. Lại có người nói Phừ đang yêu một ai đó học ở trường nội trú… Dúa không tin là Phừ đã chết hay Phừ không còn nhớ đến mình nữa. Không! Không! Dúa không tin! Mẹ thường bảo người Mông ta trọng lời hứa lắm, Phừ sẽ không lừa dối Dúa đâu. Dúa đã từng hứa sẽ đợi chờ Phừ đến khi nào Phừ nói không còn yêu Dúa, Dúa mới thôi đợi. Vậy tại sao Phừ không về bản, cũng không gửi lấy một chữ? Những câu hỏi này cứ cứa vào tim Dúa chảy ra thành những giọt nước mắt mặn đắng thấm vào bầu ngực khô của mẹ suốt mấy mùa. Mẹ ôm chặt Dúa vào lòng. Trái tim tê buốt của mẹ bật lên thành những lời hát nghe não nuột: ... Người đàn bà Mông ta khổ hơn con trâu, con ngựa Trâu ngựa được vui khắp suối, khắp đồi Đàn bà Mông chỉ đau khổ với những thương cùng nhớ Ra cửa nhớ cái buồng mình nằm Ra chân núi nhớ cái nhà mình ở Ra đường cúi mặt không dám nhìn người đàn ông khác Sợ nhìn có lỗi với chồng... ... ...Trời, chim “cư cứ” giữ vùng tháng giêng, coi vùng tháng hai Chim thấy người yêu ta, chồng ta nay ở đâu...? Mỗi lần cho ngựa ăn Dúa chỉ mong mình và Phừ được như đôi ngựa cùng tợp tợp ăn cỏ trong một cái máng. Đôi ngựa này thay cho đôi ngựa ngày Dúa còn bé dễ cũng được mấy năm rồi. Mẹ bảo từ ngày Dúa sinh ra đến nay nhà đã thay hai đời ngựa. Đôi ngựa đầu cha Dúa mang đi con đực. Mẹ chờ. Con ngựa cái chờ. Mẹ không chờ được nữa. Mẹ thay con ngựa cái, mong nó có bạn khi đến tay chủ mới. Đôi ngựa thứ hai là đôi ngựa Dúa hay chăn ngày bé. Chúng đang quấn quýt bên nhau như hình với bóng thì cái rét năm đó tràn đến. Con đực bị trượt chân xuống vực trong một buổi leo núi tìm cỏ. Mẹ đành cho trai bản khiêng nó ra chợ. Nhiều đêm con cái hí vang, lồng lộn. Một buổi sáng sương giăng mù bản, gió rít buốt óc, mẹ ra chuồng lấy cỏ cho nó ăn. Nó đã chết. Không biết nó chết vì lạnh hay vì nhớ... Hai tháng nay Dúa thấy sợ khi ra chuồng ngựa. Sợ phải nhìn con ngựa cái già. Sao đôi mắt mờ đục của nó nhìn Dúa như cảm thông, như chua xót? Hình như có lần nó khóc! Con ngựa đực nhà Dúa biến mất tăm vào một buổi chiều, cứ tưởng nó trở về như những lần trước nhưng lần này thì không. Nó đã đi. Đi mãi... Nó là một con đực sung mãn và đầy kiêu hãnh với một thân hình vạm vỡ, cường tráng. Cái bờm dài chạy đến giữa lưng lông rủ xuống mềm mượt. Ức gồ lên như tảng đá. Mông săn chắc nây đều... Một lần dắt nó xuống chợ, nó đứt dây cương lồng vụt đi khi nhìn thấy một con cái non đằng xa, làm Dúa ngã dúi dụi. Con ngựa cái sinh mấy lứa con rồi, nó lại toàn sinh nở vào những ngày đông giá nên giờ tiều tụy, cặp mông vồng căng đã xẹp lép, teo tóp. Cái bụng chảy xệ, những cái núm vú dài nhăng nhẳng, đen xì, tong teo. Và bốn vó nó mới thật thương, thật xót. Đó là những đoạn củi khô khúc khủyu, gân guốc cứ run run như không muốn làm bốn cái trụ đỡ cho thân thể cũng không còn mấy nặng nề nữa. Nhưng đến mùa động dục cái bản năng giống cái khao khát được sinh sôi nảy nở vẫn thiêu đốt thân thể còm nhom, ốm nhách của nó. Nó quằn quại. Nó lồng lộn. Nó dứt dây cương. Nó đá móng cộp cộp vào cột gỗ. Nó hí lên những tiếng vang xa nghe nhói lòng... Dúa không ngủ được bởi những tiếng hí ấy. Dúa kìm nén mà không kìm nén nổi. Tiếng kêu rên ở cái buổi tại khe núi Pư Khảo bật lên giữa đêm giá lạnh cao nguyên. Đôi bầu ngực còn xuân mẩy căng cứng, nhưng nhức như mưng mủ. Giữa đêm mưa lạnh mà mồ hôi Dúa đầm đìa... Có những đêm con ngựa cái không lồng lộn, hí vang thì Dúa chìm dần được vào giấc ngủ. Dúa mơ thấy mình biến thành những sợi bông pằng nảng bay đi theo gió để tìm Phừ. Mỗi bông pằng nảng mang theo một hạt mầm. Mỗi hạt mầm là một giọt nước mắt Dúa đã thấm vào gốc pằng nảng... Đêm qua là một đêm xuân, con Súa ào về nhà từ chiều, nó hát ríu ran. Người trong bản bảo chị em Dúa giống nhau như hai giọt nước. Nó đang ở cái tuổi mười tám của Dúa ngày xưa. Nó có một mùa xuân ở phía trước. Nó cũng sắp trở thành người phố rồi. Nó đi học dưới đó đã gần ba năm. Bây giờ về nhà nó không còn muốn đi lên nương nữa. Nó sợ phải leo dốc. Nó sợ mùi phân trâu, phân ngựa... Về đến nhà nó kêu chân tay mỏi nhừ rồi nằm vật ra ngủ. Có lúc Dúa thấy thương nó quá, chắc ở dưới đó học hành vất vả. Nó mơ ước sang năm sẽ thi đỗ vào trường sư phạm tỉnh. Đêm hai chị em ôm nhau ngủ trên chiếc giường thường ngày mẹ và Dúa vẫn nằm. Nó ôm ngang lưng Dúa thì thầm: - Chị Dúa à, thương mẹ, thương em thì chị lấy chồng đi, đừng chờ đợi nữa! - Chị già và xấu rồi không ai muốn mang rượu trắng, gà trống thiến đến nhà mình nữa đâu. Nước mắt Dúa chảy nóng hôi hổi trên má, thấm vào tóc con Súa. Con Súa thổn thức, nước mắt của nó thấm vào làn áo mỏng của Dúa lành lạnh. Ô, nước mắt cũng khác nhau vậy sao? Buổi sáng. Mặt trời vừa ló rạng sau dãy núi Pư Khảo thì Dúa tỉnh dậy. Không thấy con Súa đâu, có lẽ nó đã đi cho kịp chuyến xe về thị xã. Chắc nó chưa kịp ăn gì. Tội nghiệp! Mấy thứ mẹ sắm cho nó hôm qua nó đã mang theo. Mẹ đi cõng nước rồi. Dúa mệt mỏi quay vào thu dọn lại chăn gối đêm qua hai chị em ngủ. Sao con Súa vội gì mà bỏ quên túi xách thế này? Dúa mở túi ra xem em quên những gì rồi để gửi xuống cho nó. Dúa không tin vào mắt mình nữa. Hai người ôm nhau ngồi trên ghế đá trong tấm ảnh chả là con Súa với Phừ đây sao? Tại sao lại thế này? Một cơn gió thốc mạnh buốt đến tận buồng trong. Đôi mắt nhạt nhòa Dúa vội nhìn ra trước nhà. Một trận mưa hoa với hàng ngàn bông hoa pằng nảng đỏ tươi như máu, xoay tít, rơi rơi...
Trăng non treo đỉnh Núi Nguyễn Phú Vậy là một mùa xuân nữa lại về. Hoa đào đã lấm tấm đỏ. Mấy cây lê, cây mận quanh nhà như những cây tuyết trắng muốt. Rừng sa mộc trên đồi đội triệu triệu hạt sương, đứng im lìm thành đội quân trùng điệp. Mưa xuân bay bay ngoài mái hiên. Từng đợi gió âm ấm tràn về…Sáng nay chỉ còn mình Mây ở nhà. Mây phải trông vạc rượu Tết cho bố. Năm nào nhà Mây cũng nấu hai vạc rượu. Rượu ngô ủ men lá thơm lừng, chảy suốt một ngày một đêm mới cạn. Lũ em đi học. Bố mẹ dắt ngựa sang bên ngoại từ sớm. Bên ấy, nhà ông bà đã thịt lợn Tết. Ở đây, người ta ăn Tết sớm. Đầu tháng Chạp đã có nhà thịt lợn. Mỗi nhà một con, không nhà ai chung nhau. Như thế năm mới sẽ được no đủ, may mắn. Chỉ có ngày thịt lợn thì gọi anh em, con cháu đến ăn một bữa. Nhiều nhà thịt treo chật trên giàn bếp, mỡ đầy hai chum ăn quanh năm, đến khi thịt con lợn của năm sau vẫn chưa hết… Mây ngắm những đám mây bay ra từ khe núi. Đám mây mỏng mảnh như chiếc khăn trắng, uốn lượn, rồi tan theo gió, mất hút. Mây ước mình biến thành đám Mây ấy được tự do giữa núi rừng này. Đã hai mùa xuân, Mây không còn cái cảm giác nôn nao mong ngóng Tết đến nữa. Mỗi cái Tết qua đi là ngày Mây phải về nhà Ban càng gần. Mây sẽ không được ở cùng với bố mẹ, với lũ em. Mây phải về nhà người ta, làm con trâu nhà người ta. Đời làm dâu, lại là dâu gán nợ thì tủi cực lắm. Mây thấy sợ nên Mây không mong mùa xuân đến, không mong cái Tết về. Nghĩ đến những ngày tháng phía trước của mình, nước mắt Mây cứ trào ra. - Con Chẳm…Con Chẳm… Mây giật mình bởi tiếng kêu dưới chân cầu thang. Sao Răm lại hốt hoảng thế này? Không lẽ có chuyện gì sao? Nó nhắc đến con Chẳm. Thì vừa hôm trước cả bọn đưa nó về nhà thằng Sính bên Pờ Ly Ngài mà. Chắc chưa quen chồng, nhớ nhà rồi trốn về với bố mẹ đẻ thôi!? Răm vẫn trân trân nhìn Mây. Rồi nó lao lên trên sàn ôm ghì lấy Mây thổn thức. - Con Chẳm… - Nó có chuyện gì? - Giọng Mây run run. - Nó …chết rồi! Mây chết lặng. Trời ơi, sao có thể thế được!? Mới hôm trước nó còn đẹp như một bông hoa. Chiếc áo chàm nó mặc bó sát người, hàng cúc bạc hình hoa mua lấp lánh, kiềng bạc sáng choang. Nó ngồi trên lưng con ngựa bạch. Thằng Sính dắt ngựa tít mắt cười. Sao nó lại chết?! Chẳm ơi, sao mày lại bỏ mày đi? Hay con ma rừng bắt mày, con ma núi bắt mày? Mây ôm Răm, hai đứa cùng nức nở. Hai đôi vai thon rung lên từng nhịp. Vậy là con bạn thân, đẹp như con chim quý trên rừng đã chết… Lũ con gái ở bản Tà Chải này cái tuổi con gái mau qua, cái phận đàn bà mau tới. Cha mẹ nhận đồ sêu của người ta khi mới chín, mười tuổi. Đến mười lăm, mười sáu ăn chưa biết no, nghĩ chưa biết khôn đã về làm dâu nhà người. Rồi suốt một đời ru rú trong xó buồng nhà chồng, không dám bước qua ngưỡng cửa nhà chồng. Đẻ cho nhà chồng một lũ con như gà như vịt. Bầu vú chưa căng chín tròn đã nhàu nhĩ bởi tay chồng. Hai cái đầu vú thì nhằng nhằng sứt sẹo vì răng của cả đống con nghiến, rứt. Suốt ngày cắm mặt trong nhà, trong bếp nấu rượu cho chồng uống, lùi lũi trong chuồng băm cỏ cho trâu bò dê ngựa nhà chồng ăn… Bao đời nay cái phận đàn bà như thế rồi. Không khác được. Có đau, có buồn cứ lấy cái gương mẹ chồng, chị dâu ra mà nhìn. Rồi thành quen. Chưa người đàn bà nào dám bước qua ngưỡng cửa nhà chồng để về nhà mẹ đẻ. Khổ quá thì cứ cố cắn răng mà chịu. Nhục quá thì làm nắm lá ngón. Chết cũng phải ở nhà chồng, làm ma nhà chồng. Sao con Chẳm phải chết cơ chứ? Nó là đứa con gái đẹp và ngoan nhất nhì bản này. Người trong vùng bảo Tà Chải có hai bông hoa đẹp, hai con chim quý. Trai Tà Chải suốt ngày uống rượu ngô, không chịu làm ăn gì, chắc không giữ nổi hoa đẹp, chim quý. Trai bản khác sẽ đến hái hoa, bắt chim đi thôi. Không có bàn tay lạ hái hoa thì hoa đẹp cũng tự héo. Không có bàn tay lạ bắt chim thì tự chim quý nó cũng bay đi. Hai bông hoa đẹp, hai con chim quý ấy là Mây và Chẳm. Vậy mà Chẳm chết. Mây thấy tim mình như có lũ ong đất hàng nghìn con đang bu vào. Những giọt nước mắt cứ tràn ra, giàn giụa. Bố mẹ Chẳm nhận bạc nhà thằng Sính từ năm Chẳm mười tuổi. Pờ Ly Ngài có nghề chạm bạc nổi tiếng ở vùng này. Những chiếc vòng dầy, sáng lấp lánh mê hoặc bố mẹ lũ con gái trong vùng. Khuyên tai bạc làm loá mắt con gái đẹp. Thằng Sính hơn Chẳm một tuổi, nhưng nó bé, đen, thấp hơn Chẳm một cái đầu. Có lần nó đến nhà Chẳm cùng bố mẹ nó, Chẳm trốn biệt không thèm gặp. Mẹ đi tìm Chẳm, bảo: “Con gái ngoan, mày phải nghe bố mẹ chứ. Lấy chồng Pờ Ly Ngài chỉ đẻ và nuôi con. Sướng lắm con gái à. Bố mẹ thương mày mới nhận bạc của người ta…”. Chẳm không thích thằng Sính. Đến năm nó mười tám tuổi rồi, có lớn người mà tính vẫn như thằng trẻ con. Một lần, Chẳm cùng lũ con gái bản kéo nhau xuống chợ Ngàm Bảng, vừa đến đầu chợ thấy đám người xúm xít lại. Cả lũ kéo nhau vào xem. Một đám thanh niên đang dùng chân tay, gậy gộc đánh liên tiếp vào hai thanh niên khác. Chẳm không tin vào mắt mình. Một trong hai kẻ bị đánh là Sính. Sính cố vùng vẫy nhưng không thoát thân, đành chịu trận, tơi tả không khác gì mớ giẻ. Tự dưng Chẳm thấy thương nó. Chẳm xông vào ngăn lũ người lại. Chúng tản ra, cười hô hố. Trông man rợ và nham hiểm. “A, thì ra là chồng của Chẳm đấy à?”. “Người đẹp như mày mà lấy nó cho phí cái đẹp đi”. “Thôi đưa nó về mà chăm không thì mang lên rừng mà chôn”. Mấy thằng thanh niên ấy ở bản Nhùng. Cái bản giàu nhất trong vùng. Có lần chúng đã đến bản Chẳm rủ lũ con gái đi chơi. Chúng lại hô hố cười bỏ lại Chẳm bệt xuống bên Sính. Mấy đứa bạn hãi quá dạt vào quán thắng cố của lão Xèng chột. Sính nằm dài ra đất nắm tay Chẳm, trán nó rớm máu. Mấy người đàn bà đi qua liếc nhìn, ngoáy cái mông làm cho chiếc váy xúng xính: “Cho cái thằng xấu bụng chết”. Họ ném lại câu nói rồi bỏ đi. Thì ra, Sính và thằng bạn tức bọn thanh niên bản Nhùng thường hay đến Pờ Ly Ngài ve vãn lũ gái bản. Xuống chợ, thấy ngựa của bọn nó hai thằng lấy dây dù buộc đuôi hai con ngựa, lại lấy cứt ngựa nhét vào quẩy tấu trên lưng ngựa. Bọn thanh niên bản Nhùng uống rượu trong quán nhìn thấy. Cơn sôi máu cùng với cái nóng của rượu làm Sính và thằng bạn ăn trận đòn tả tơi. “Cái bụng xấu thế, nó đánh cho là phải thôi”. Chẳm vùng vằng bỏ đi vì xấu hổ. Chẳm không thấy thương thằng Sính như lúc nhìn thấy nó bị đánh nữa, mà thấy ghét. - Mây ơi, tao sắp phải về nhà Sính rồi. Bố tao đã nhận con lợn đen, can rượu nếp nhà Sính mang đến. Nhận cả bạc nữa. - Cứ về với nó đi. Nó cũng yêu mày mà! - Nhưng nó trẻ con quá, có sửa được không? - Sửa được mà. Nó thành đàn ông, thành bố trẻ con là nó khắc người lớn ra thôi. Có vợ nó mới không lêu lổng cùng lũ trai bản. - Nhưng tao sợ nó lắm. Hôm trước nó nói nó phải nhanh cưới tao, không để cho bọn con trai bản mình, bản khác nhòm ngó. Mây nhìn thấy mắt Chẳm như mắt con nai trên rừng đang bị lũ người săn đuổi. Chẳm bồn chồn lo lắng là đúng lắm. Lần Mây cùng Chẳm đi hái rau lợn bên suối Huổm, Sính từ đâu đi tới giật lấy tay Chẳm, nói: “Mày là vợ tao rồi, không được đi chơi với thằng nào, tao cấm!”. Thì ra nó ghen. Biết Chẳm, Mây đẹp bọn con trai các bản ngày đêm đến Tà Chải ve vãn. Chẳm vùng tay bỏ về, mắt thằng Sính ngầu đỏ. Mây nhìn cũng thấy sợ. - Con Chẳm nó chết thật rồi. Nó ăn lá ngón tự tử. Tao sợ lắm! - Răm lại nấc lên. Vừa chiều hai hôm trước, Mây, Răm cùng lũ bạn trong bản và mấy người nhà đưa Chẳm về nhà chồng. Ai cũng thấy vui vì Sính trông có vẻ hiền, tỏ ra quan tâm, chăm sóc vợ. Nó yêu Chẳm quá nên hay ghen đấy thôi. Nó lấy được Chẳm nó sẽ yêu, sẽ tốt với Chẳm. Từ Tà Chải sang Pờ Ly Ngài đi hai lần con ngựa dừng chân. Giờ chân Mây vẫn còn mỏi. Vậy mà Chẳm chết rồi… Người nhà con Chẳm bảo thằng Sính đã giết vợ. Đêm trước, khi mọi người nhà Chẳm về hết, họ nhà nó còn đang ăn uống tất trên sàn, Sính mò vào buồng đòi Chẳm cởi váy áo cho nó ngủ. Từ trước đến nay, ở vùng này chưa người đàn ông nào đòi ngủ với vợ ngay đêm đầu tiên. Có người còn cho cả bạn gái của vợ ở lại với vợ hai ba ngày. Chẳm chưa hết lạ lẫm, chưa hết buồn vậy mà nó đã đòi với Chẳm ngay lúc đấy. Chẳm co rúm người lại, ép sát hai đùi vào nhau, lùi sâu vào trong góc giường. Thằng Sính chồm lên, xé váy áo, cắn chảy máu môi Chẳm. Đau quá, tức quá, Chẳm co chân đạp vào bụng Sính. Nó hộc lên, tát bốm bốp vào mặt, vào đầu Chẳm. Ngoài nhà thấy vậy, mẹ chồng chạy vào: “Con dâu ngoan à, mày phải chiều chồng mày chứ. Lấy chồng ai cũng phải như thế thôi. Rồi sẽ quen mà!”. Thằng Sính vùng vằng bỏ ra ngoài uống rượu tiếp. Đêm ấy Sính không mò vào nữa. Nó ngủ lăn ngủ lóc ra sàn trong cơn say. Chẳm không chợp mắt được. Những giọt nước mắt cứ tràn trên gối. Chẳm thấy mình như sống trong một thế giới xa lạ. Không có tiếng cười của bọn bạn. Không có tiếng bước chân của bố mẹ. Không có tiếng cạc cạc của lũ vịt bầu…Đêm đầu tiên ở nhà người yên tĩnh đến rợn người. Yên tĩnh như trong khu rừng ma. Chẳm vục dậy nhìn đêm qua cửa sổ. Vầng trăng non cong cong treo đầu núi, lơ lửng, mỏng manh như sắp rụng xuống cánh rừng u tối. Trăng đầu tháng sáng leo lét, lạnh lẽo. Làn sương mỏng mảnh bao phủ trên đỉnh núi nhọn hoắt - dãy núi cao nhất quê Chẳm - tựa làn khói từ cõi âm ti. Chẳm rùng mình. Sáng. Mẹ chồng kéo Chẳm vào góc buồng, đưa cho nắm lá gì đó, bảo nhai. Chẳm làm theo. Đắng đến thụt lưỡi, Chẳm định nhè ra. Mẹ chồng lấy tay bịt mồm Chẳm. “Mày cố mà nhai, ngày xưa mẹ chồng cũng cho tao ăn cái này, bảo không thấy sợ, sẽ yêu chồng hơn”. Chẳm nhắm mắt nuốt, miếng bã lá trôi hết vào bụng, Chẳm thấy ngòn ngọt ở đầu lưỡi. Người Chẳm nóng ran, cứ ngất nga ngất ngư như say rượu. Vú thì căng đến rách da rách thịt…Cả ngày như thế. Chẳm vật vã trong buồng. Chẳm chờ mà không thấy Sính vào… Đêm đổ ập xuống. Sính vào nhìn Chẳm như con hổ nhìn con nai rừng. Trải tấm vải trắng xuống giường, vật Chẳm ra. Chẳm cuốn theo từng cử động, từng nhịp sóng của Sính. Chẳm thấy như bồng bềnh trên đám mây buổi sớm. Rồi nhói buốt, buốt lên đến tận óc. Sính nằm vật ra thở. Một lúc sau, nó vùng lên, giật tung tấm vải. Nó soi lên mặt. Tấm vải vẫn trắng tinh, nhàu nát. Nó vứt tấm vải vào mặt Chẳm, hộc lên : “Con chó cái, mày đã cho thằng nào?...”. Chẳm thấy nhục quá, đau quá. Vậy là nó nghi ngờ Chẳm vì không thấy dấu vết. Cái dấu vết mà đàn ông vùng này luôn được bố chỉ bảo từ khi mới lên mười, mười một. Nó còn rít lên bao tiếng chửi rủa. Chẳm biết làm gì, biết nói gì bây giờ? Nhưng Chẳm đã cùng ai bao giờ đâu. Sao nó cứ muốn Chẳm, bắt Chẳm phải có cái ấy. Ngày mai nó sẽ đem trả Chẳm, rồi bắt đền! Thế thì nhục lắm, con gái ở đây mà bị thế thì chỉ có nhảy xuống vực hay ăn lá ngón mà chết. Chẳm lao ra cánh rừng thâm u. Vầng trăng non như một nét mày sơn nữ chiếu sáng mờ ảo. Tiếng dế kêu ri ri lẫn trong tiếng thì thào của cỏ nghe thành tiếng nấc uất nghẹn. Người đi làm nương sớm thấy Chẳm cứng đờ trên vạt cỏ. Hai má sưng vù, tím màu quả sim chín, miệng còn ngậm một cái lá. Kể xong, con Răm lại nấc lên từng hồi. Mây thấy lạnh toát cả sống lưng. Mây sợ. Rồi Mây cũng phải về nhà chồng thôi. Bố mẹ Mây đã ăn nhiều gà béo, uống nhiều rượu thơm của người ta rồi. Nhà Ban ở trong bản này. Mây không ưng cái bụng mỗi khi nghĩ sẽ phải lấy Ban. Ban không đen, không xấu nhưng nó kém Mây ba tuổi, chỉ bé bằng thằng em Mây. Vậy mà Mây phải làm vợ nó sao? Sao bố mẹ lại nhận gà, nhận rượu nhà Ban chứ? Có lần Mây khóc hỏi mẹ, mẹ chỉ gạt nước mắt. Không hỏi được mẹ, Mây vùng vằng bảo sẽ trốn đi, không ở bản này nữa. Mây không lấy thằng Ban đâu! Mẹ hốt hoảng nhìn Mây, rồi quỳ thụp xuống chân Mây. Bố mẹ Mây đã nợ nhà Ban ba con trâu mộng từ ngày bố mẹ lấy nhau và ngày ông nội Mây chết. Nhưng đã nhận gả con cho nhau thì vẫn được nhận gà, nhận rượu vào ngày Tết và rằm tháng Bảy. Mây không lấy Ban thì nhà Mây phải trả sáu con. Lệ bản này thế rồi, ai nuốt lời nói là bị phạt. Rồi bao nhiêu gà, rượu của người ta bố mẹ Mây đã nhận từ lâu, tính làm sao mà trả được. Mây phải lấy Ban thôi. Đàn bà bản này bao nhiêu người vợ già hơn chồng có sao đâu. Mây cũng sẽ như họ. Về nhà người ta làm từ sáng đến đêm năm này qua năm khác; đẻ con, nuôi con, nuôi cháu mấy chục năm rồi sẽ quen hết, quên hết thôi… Đã qua Tết. Cái Tết năm nay qua nhanh thật. Mây chỉ quẩn quanh trong nhà, không đi chơi chợ, chơi hội lồng tồng. Xác hoa đào rụng tả tơi quanh vườn, khắp các lối đi trong bản. Cứ mỗi một làn gió đi qua là trăm ngàn cánh hoa hồng tươi trên cành chao liệng xuống đất, rồi trắng bệch, nhàu nhĩ, hoà vào trong bùn đất. Mây hay ngắm những cánh hoa ấy, rồi lại nghĩ đến Chẳm, đến mình. Đã mấy lần buồn, nhớ Chẳm, Mây lén uống rượu một mình. Rồi ngủ thiếp đi. Mây hay mơ trong giấc men say. Mây thấy mình biến thành những dải mây trắng bồng bềnh. Những dải mây trắng muốt theo gió đi khắp núi đồi và đến một nơi thật xa lạ. Chưa bao giờ Mây thấy hay hình dung ra. Ở đấy có cánh đồng bằng phẳng chạy tới chân trời, những con đường thênh thang, mềm mại và những ngôi nhà mái đỏ au…Nhưng có lần Mây thấy mình bị vứt xuống một cái hang sâu đen kịt, thăm thẳm. Mây rơi mãi, rơi mãi… Mây mụ mị không còn biết gì. Và rồi Mây thấy tim mình nhói buốt bởi những bàn tay đầy móng vuốt đang cấu xé, đầu óc quay cuồng trước những cái mặt ghớm ghiếc nhe răng ra cười… Mây bừng tỉnh, mồ hôi đầm đìa. Mây ngập lún trong cái cảm giác lạnh toát, run rẩy. Gần hết tháng Giêng, các cuộc vui chơi của người già, thanh niên, con trẻ giờ mới thực sự chấm dứt. Gió xuân ấm áp. Những sợi nắng vàng rải xuống núi đồi, nương ruộng ngày càng nhiều hơn. Cỏ mơn mởn cong lên chờ mưa. Lá cây rừng mỡ màng, căng tràn sức xuân. Nhà nhà chuẩn bị vào mùa đốt nương tra hạt. Nhưng cũng mấy ngày nữa nhà Mây mới bắt đầu vào mùa nên hàng ngày Mây đi cắt rau lợn và chăn đàn dê. Đàn dê nhà Mây hơn chục con. Mây ghét tiếng lũ dê vào buổi sáng. Ghét nhất là tiếng be be của con dê đực già. Sáng sớm khi mọi người con đang ngủ, nó đã kêu be be, lồng lộn trong chuồng để dồn đuổi lũ dê cái và húc những con dê đực non. Có lần với cặp sừng nhọn, sắc như mũi dao nó đã húc lòi ruột một con đực non khi thấy con dê đó đang ve vãn một con cái trong đàn. Bố Mây đã phải dùng dao gọt đầu sừng nó. Mây thấy ngại ngùng, pha chút bực tức mỗi lần ra mở cửa chuồng dê. Con đực già luôn đứng chặn ngang giữa cửa. Nó giương cặp mắt hau háu nhìn khắp chuồng. Nó hếch chiếc mõm lên lộ ra mấy chiếc răng trắng, to, bộ râu dài dưới cằm rung rung thật đáng ghét. Không một con cái nào có thể qua cửa nếu không cho nó cưỡi lên lưng. Mây nóng bừng mặt trước hành động của con đực già. Mây vung chiếc roi quất tới tấp vào đầu, vào lưng nó như cố xua đi cái hình ảnh ấy khỏi đầu. Vậy mà suốt cả buổi cái hình ảnh ấy nó lại không chịu ra khỏi đầu Mây. Mây thấy một cảm giác lạ, rồi thấy xấu hổ. Mây càng ghét tiếng be be của con đực già mỗi buổi sáng. Ngôi trường bên bản Nậm Dế người ta sắp xây xong. Từ nay lũ em Mây không phải đi học xa nữa. Từ Tà Chải sang Nậm Dế chỉ phải qua một quả đồi. Giá ngày xưa Mây và lũ bạn có trường gần như thế để đi học thì chắc Mây cũng sẽ học giỏi, học được lên cao, rồi được xuống thị xã, thành phố dưới xuôi như lũ con gái thị trấn. Nhưng ở bản Mây chả đứa nào đi học hết cấp hai. Cô giáo đến bảo bố mẹ cho đi học. Bố mẹ nói: “Nó như cái cây trong rừng, không thể có chân mà đi được. Nó như hòn đá trên núi, không có cánh mà bay đi xa được. Có học cũng thế thôi. Ở nhà giúp bố mẹ, rồi dệt váy áo và gối cho nhà chồng là vừa”. Cô giáo đến nhà nào bố mẹ cũng nói thế. Vậy là bọn Mây phải nghỉ học. Dáng đi mỗi ngày thêm chúi về trước vì cái quẩy tấu sau lưng mỗi ngày thêm cao lên. Chiều tắt nắng. Màn đêm lân la mò về. Mây mang váy áo ra suối giặt. Con suối cuối bản Mây đến lạ, quanh năm nước ấm nóng như có người đun. Mây giật mình khi nhìn thấy một thân thể đàn ông. Người đó trắng trẻo, vâm váp quá. Những bắp thịt cuồn cuộn lên theo mỗi nhịp chân tay. Mây chưa nhìn thấy một người đàn ông nào có thân hình đẹp như thế. Con trai, đàn ông trong bản Mây và mấy bản bên quanh năm chỉ vùi mình trong rượu ngô, rượu sắn, có người vẫn lén lút hút thuốc phiện nên chân tay như cành củi khô, đầu tóc rối xù, người thì hôi như cú. Có mấy khi họ tắm giặt. Đột nhiên Mây lại như nghe thấy tiếng be be và cái cảnh con dê đực già đứng trước của chuồng mỗi sáng hiện lên. Mây nóng ran cả người, toan chạy về. Nhưng không hiểu sao Mây cứ đứng chôn chân không nhích đi được. Người đàn ông đã mặc chiếc áo lót vào. Anh ta ngoảnh lại. Hai tia mắt chạm vào nhau. Anh ta tiến đến hỏi Mây ở bản nào. Mây đỏ bừng mặt, chẳng nói được câu gì. Anh ta trông thật đẹp trai. Không giống con trai ở bản này. Anh ta nói đang làm công trình trường học bên Nậm Dế… Chiếc áo trôi đi một quãng xa mà Mây mới biết. Hình ảnh khi Mây mới ra suối cứ choán hết tâm trí Mây. Dòng nước chảy qua các mỏm đá phát ra những tiếng như đang cười Mây. Mây tỉnh ra thì trăng đã lên cao. Vầng trăng non nằm nghiêng nghiêng trên đỉnh núi. Những ngôi sao như hàng ngàn mảnh bạc li ti, sáng lấp lánh mà người thợ bạc Pờ Ly Ngài nào đó vãi lên trời. Đêm ấy Mây mơ. Giấc mơ làm sáng ra Mây đỏ mặt. Cả ngày Mây không làm gì được. Đầu óc cứ để đi đâu. Mây làm vỡ mấy cái bát khi mang đi rửa. Mẹ mắng: “Con gái vụng rồi về nhà người ta bố mẹ lại phải nghe chửi. Phải cẩn thận chứ!”. Chiều về. Mây lại thấy nao nao. Có ngày không có váy áo để giặt Mây cũng đem một cái áo ra suối. Mây đã thấy trong người như có men rượu khi nhìn người ấy. Đàn bà trong bản thường nói với nhau: “Con gái mà cứ thích nhìn đàn ông tắm là con gái hư”. Thế là Mây hư thật rồi. Mây đã nấp sau tảng đá to ngắm người ấy nhiều lần. Nhiều đêm Mây lại mơ. Những giấc mơ từ ngày bé Mây chưa gặp. - Mây đẹp thật! Con trai bản này chắc nhiều người mê lắm đây. Mây giật mình. Thì ra là anh ta. Sao anh ta lại biết tên Mây. Nắm cỏ rơi khỏi tay Mây. Mây lúng túng. Nhưng rồi ánh mắt thật hiền của anh ta làm Mây trấn tĩnh lại. Anh ta tên là Hùng, người mãi tận vùng xuôi. Hùng bảo làm xong công trình này sẽ sang các bản quanh đây làm công trình khác. Hùng hỏi Mây nhiều thứ lắm, Mây chẳng nhớ hết, cũng không nhớ Mây đã nói những gì. Hùng nói thật nhiều. Những lời mà cái tai Mây thích nghe. Mây chưa thấy con trai ở đây nói với Mây như thế bao giờ. - Mai tôi đến nhà Mây nhé! - Không được đâu. Mây có chồng rồi, người trong bản nhìn thấy cười cho. - Thế thì tôi đến thăm bố mẹ Mây. - Tuỳ anh Hùng thôi. Đừng để người bản cười Mây. Mây sợ Hùng đến nhưng Hùng đã đến thật. Hùng đi xe máy, phi thẳng vào chân cầu thang. Con chó đen nhà Mây lao ra nhe hàm răng trắng ởn cắn ông ổng. Lũ vịt bầu chạy toán loại lao cả vào cột dưới sàn kêu cạc cạc. Lũ dê cái hiền thế tự dưng kêu be be… “Không phải đến thăm Mây, tôi đến mua dê cho công nhân. Tôi thích món tiết canh dê và rượu tiết dê”. - Hùng nói vừa chỉ tay vào con dê đực non. Bố mẹ Mây nhìn Hùng từ đầu đến chân. Đàn ông ở đây, nhất là con trai không ai dám ăn tiết canh và uống rượu tiết dê, mà lại là dê đực. Cái tục kiêng ấy gắn với một câu chuyện đau lòng từ xa xưa, Mây đã loáng thoáng nghe người già nói với lũ con trai mới lớn. Mây không tin vì thấy có lần lũ trai bản lấy trộm tiết dê pha rượu uống rồi có sao đâu! Mây lại đỏ bừng mặt, quay đi khi Hùng nhìn. Bố mẹ Mây vui cả buổi tối khi bán được con dê gầy với giá cao. Còn Mây thì ngất ngây trong cái bụng. Hình như có lúc Mây hát. Trái tim Mây đang hát thật. Hát rất khẽ, rất êm. - Mây đẹp lắm, con trai bản này chắc nhiều người khổ vì Mây. - Không, anh Hùng nói sai rồi. Mây xấu lắm, con gái vùng xuôi mới đẹp. - Mây đẹp thật mà. Tôi cũng khổ vì Mây đây này. Tôi muốn ở lại đây, Mây có đồng ý không? - Ở đây khổ, nghèo, người xuôi có bao giờ ở lại đây đâu. - Nhưng tôi muốn ở lại thật mà. Từ khi gặp Mây là tôi muốn ở lại. Thật đấy, nói sai tôi bị thú rừng ăn thịt, đá núi đè chết… Mây ngỡ ngàng trước chiếc vòng bạc Hùng đưa lên trước mặt. Chiếc vòng bạc đẹp quá, đẹp hơn tất cả những chiếc vòng Mây đã nhìn thấy. Hùng bảo hôm qua phải sang tận Pờ Ly Ngài để mua. Chiếc vòng vừa xinh, cứ như làm để cho riêng Mây. ánh mắt Mây chứa cả bầu trời sao lung linh, đựng cả một biển rượu men lá sóng sánh sóng sánh. Mây như bay lên… Hùng bế Mây lên gốc thông bên tảng đá. Cả hai đê mê, lăn theo tiếng thông reo. Hùng sẽ trả hết nợ cho bố mẹ Mây. Hùng sẽ ở đây. Rồi Mây sinh cho Hùng những đứa trẻ đẹp như những chú bê non. Hàng tháng mẹ con Mây chờ Hùng đi làm các công trình trở về… Gốc thông đã nghe những thanh âm tột cùng sung sướng trong đớn đau của Mây. Nhiều đêm, Mây muốn được Hùng cứ ôm mãi mà ngắm vành trăng non manh mảnh treo trên đỉnh núi, rồi ngủ thiếp đi trong cánh tay rắn chắc ấy cho đến sáng. Hơn hai tuần rồi Hùng không sang. Mây cồn cào gan ruột. Cả ngày chả muốn làm gì. Buổi sáng Mây thấy muốn nôn. Mây nôn thốc nôn tháo. Mẹ hốt hoảng nhìn Mây. Mẹ chạy ra ôm Mây. Bất ngờ, mẹ lật áo Mây lên. Mẹ ngã vật ra. Thôi thế là con này hỏng rồi! Mẹ khóc như trong nhà có người chết. Mây lạy mẹ, van mẹ mà bà vẫn chưa thôi khóc. Chiều, Mây vượt dốc sang bên Nậm Dế. Mấy phòng học đã xong. Không một bóng người. Vài đứa trẻ từ đâu chạy ùa ra nghịch những cát sỏi, bê tông vương vãi. “Đi lâu rồi”. Mây nghe không hết câu trả lời của lũ trẻ. Cái bản Hùng sẽ đi xây tiếp ở đâu, là bản nào, bản nào? Sao lúc ấy Mây không hỏi rõ? Mây lao nhanh xuống dốc. Trăng non đã lên. Những bầu ngực núi phía tây đang ưỡn lên gọi trăng.
Rau cay Nguyễn Phú Mỗi gia đình người Mông thường có năm, sáu người. Gia đình Páo chỉ có hai cha con. Khi Páo nhận ra trong “căn nhà” của mình thiếu một người đàn bà, Páo hỏi cha: “Mẹ đâu?”. Cha nói mẹ Páo đi xa lắm, đi khi nào mỏi chân thì về. Páo là cái cây bám sâu vào đá núi khô cằn là cha, để uống mạch nước còn âm ỉ chảy. Cây dần lớn lên và đất thêm cằn cỗi, già nua mỗi ngày. Páo hồn nhiên sống như bao đứa trẻ trên cao nguyên. Páo lớn lên, không nhớ đã bước bao nhiêu bước sau cha. Cha con Páo đi dọc dòng sông Nho Quế, đến nơi đất dồn đuổi những mỏm đá xám co lại thành từng cụm, ở chỗ ấy có thể trồng được cái để ăn. Páo biết cha đã đi như thế từ lâu lắm rồi, từ ngày cha còn trẻ. Đó là tất cả những gì Páo biết về việc đang làm của hai cha con. Tháng năm sống đời du canh. Ở đám nương này vài ba năm lại đi đám nương khác. Trên đám nương ấy cha con Páo dựng lều. Ngôi nhà nhỏ ở bản cũ vẫn ngóng trông cha con Páo từng ngày. Cha con Páo trồng ngô trên những đám nương tự khai phá. Đi đến đâu hai cha con mang theo hạt ngô, cõng phù sa, cõng nước từ dòng sông lên đổ thêm vào những hốc đá để trồng được nhiều ngô. Hai cha Páo chỉ thu một phần đủ ăn, một phần để bán đi mua những thứ cần cho sinh hoạt, phần còn lại cứ để vậy đợi chờ. Những nương ngô, đậu của các nhà khác trong vùng không thể thiếu cây lanh, cây chàm. Vì nhà họ có đàn bà con gái. Nương ngô nhà Páo không có một chiếc lá nào của loại cây ấy, chỉ gieo cải quanh năm. Loại cải bẹ to, lá xanh, hoa vàng, càng sương, rét cây cải càng lên nhanh. Cải là loại rau ăn quanh năm của cha con Páo. Những lứa cải không ăn kịp lên ngồng. Cái ngồng đầu tiên bị hái đi lại chồi lên năm bảy cái ngồng khác. Hái càng đau, ngồng lên càng nhiều. Những cái ngồng mập mạp, tua tủa nụ, chần qua nước sôi ăn đắng ngắt, cay xè, hơi cay xộc lên tận óc. Ăn được một cái ngồng thì nước mắt nước mũi tứa ra, giàn giụa. Cha nói ngày xưa mẹ Páo thích loại rau này. Mẹ gọi là rau cay. Cha Páo yêu mẹ nên thích rau cay. Từ nhỏ Páo ăn được rau cay vì Páo là con họ... Người ta ít thấy cha con Páo xuống chợ. Có hai cha con nên chẳng cần nhiều thứ trong chiếc lều nhốt ba con trâu không vừa. Xuống chợ cha luôn cho Páo đi cùng. Cha thường đứng tần ngần hồi lâu trước những chiếc khăn, áo, sợi chỉ xanh đỏ...mà đám đàn bà con gái đang xúm xít mua. Có lần cha tiến lại đống khăn áo đó cầm lên một chiếc khăn rồi hững hờ bỏ xuống, bước vội đi. Cha đến hàng thắng cố, không ăn thắng cố chỉ rót rượu hết bát nọ đến bát kia. Rượu cũng cay như rau cay nên mắt cha tứa nước. Páo quen hơi rượu rồi biết uống rượu từ những lần xuống chợ. Nhiều đêm cha ngồi như một mỏm núi chênh vênh, im lìm đợi gió gào cho thêm tê tái, cho thêm trơ lì. Và cũng nhiều đêm cha ôm Páo vào lòng. Páo thấy toàn thân cha nóng rực, căng lên. Cha trằn trọc, nén những tiếng thở dài... Páo đã mơ, giấc mơ của thằng con trai ria mép còn lún phún lông măng. Trong mơ Páo gặp những đứa con gái có bắp chân tròn lẳn, ngực căng như hai quả bầu đẫy đà. Sau những buổi sáng, bước ra từ cơn mơ Páo thấy lâng lâng. Páo xấu hổ khi chợt nhận ra những vết loang lổ ở đũng quần. Cha bắt gặp sự lúng túng của Páo. Cha nhìn lảng đi nơi khác. Ánh mắt của cha vừa vụt sáng rồi tối sẫm lại, đầy lo âu. «Con gà trống biết gáy rồi đấy. Họ Sùng có con trai lớn rồi !». Một buổi sáng cha nói vậy khi Páo đến ngồi bên cha... Những đêm đông giấc mơ đến với Páo nhiều hơn. Páo thấy cha thở dài, như tiếng thở của con trâu sau buổi cày nương. Và Páo dần hiểu ra tiếng thở dài của cha là vì sao. Páo lại hỏi : «Mẹ đâu, sao đi mãi không mỏi chân à ?». Câu hỏi Páo đã hỏi cha rất nhiều lần, lần nào Páo cũng nhận được câu trả lời : “Cái chân chưa mỏi đâu. Phải đợi thôi!”. Nói rồi cha nhìn xuống dòng Nho Quế, không nhìn Páo. Một năm...hai năm…Páo không muốn hỏi cha nữa. Páo thấy hình như dòng Nho Quế sau một năm lại cạn dần đi. Páo nhìn dòng sông đầy nghi hoặc, lo lắng. Hiếm lắm mới có bàn chân một người đàn bà, một đứa con gái đặt trên đám nương nhà Páo. Páo bẻ ngô, hái cải cho bất kì một người đàn bà nào qua đám nương nhà Páo. Páo mong họ. Nhiều người đã đến. Trong số ấy một vài người đàn bà chết chồng. Ánh mắt họ lạ lắm khi nhìn cha Páo. Con gà trống thấy con gà mái thì gáy, Páo mong cha nói với họ một câu, cười với họ một tiếng. Nhưng cha chỉ lùi lũi làm như con gà trống vừa bị thiến vừa bị sợi tóc rối mắc trong cổ. Những người đàn bà ấy dần ít qua nương nhà Páo... Và khi cha con Páo chuyển nương đi nơi khác, Páo không gặp lại họ. Cha càng trở nên lầm lì. Đêm càng dài đối với hai cha con. Páo hay nhắc đến những người đàn bà hai cha con từng gặp. Páo giận dỗi nói với cha: « Đàn ông phải có đàn bà. Không có đàn bà thì cái chân bước sẽ mỏi, cái đầu nghĩ sẽ tối. Cha phải lấy vợ thôi. Mẹ đi nhiều cái chân quên lối về đất họ Sùng, cái đầu quên nghĩ về người họ Sùng rồi ». « Không, không phải đâu. Vợ tao đã là ma họ Sùng. Đi hết núi, hết rừng cũng phải về mà. Tao không lấy người khác đâu». Páo hét lên : «Người già mà nói dối thế à ? Mẹ không về, mẹ quên đường về rồi!». Páo khóc rống lên nghe thành tiếng con lợn bị chọc tiết, khi nhớ đến một người trong bản từng nói mẹ Páo chết từ lâu rồi... Cha ôm đầu, những sợi tóc ngả màu loà xoà trên đầu gối. Páo nghe giọng cha như tiếng từng giọt nước khó nhọc nứt ra từ đá. Những giọt nước tuôn thành một dòng sông đưa cha con Páo về lại tháng ngày xa cũ... Sùng Mí Dùng là con trai độc nhất của dòng họ Sùng ở Lùng Chín Thượng. Người trong bản bảo ông trời thường công bằng. Họ Sùng có nhiều đất, có nhiều vàng bạc, trâu ngựa nên nhà họ Sùng hiếm con. Bố Sùng lấy ba vợ chỉ được mụn con trai duy nhất là Dùng. Lớn lên Dùng lấy vợ như con chim, con thú phải có đôi. Ba năm về nhà chồng vợ Dùng đẻ một thằng con trai. Dùng được bỏ chữ «Mí» trong họ tên, thay bằng chữ khác, được làm người lớn. Đàn ông lấy vợ không làm cho vợ đẻ được con, có giết ba con trâu để làm lễ đổi tên người ta cũng không đến. Phải có đứa con thì mới đổi tên được, mới thành người lớn được. Không đổi được thì chết vẫn là trẻ con và bị người ta khinh miệt. Dùng được đổi tên làm người lớn nhưng vợ Dùng tịt không đẻ nữa. Cha mẹ Dùng chờ mòn con mắt vợ Dùng vẫn cứ như bông pằng nảng rừng rực cháy quanh năm mà không đậu được quả nào. Cha mẹ Dùng lại bán trâu ngựa, bạc trắng, những đám nương tốt và làm mọi cách để con dâu đẻ thêm đứa con nhưng không được. Tuổi già đang kéo họ gần đến ngày về với tổ tiên ông bà. Họ hoảng sợ đến ngày ấy mà đứa con dâu kia vẫn không đẻ được thêm một đứa con trai... Một thằng con thì biết đâu đấy. Không thể yên cái bụng được. «Có người thì có cả núi cả rừng, không có người là không có gì cả». Họ trở nên cay nghiệt. Đứa con dâu bị ruồng rẫy, hắt hủi. Dùng thương vợ nhưng Dùng không thể làm gì. Đàn bà Mông khi lấy chồng thì như thắng cố đã sôi trong chảo, mặn nhạt, đắng cay, sống chín…là do tay nhà chồng. Vợ Dùng không có lỗi. Đêm nào cha mẹ chửi vợ, Dùng chỉ biết lảng đi chỗ khác. Cha mẹ thôi chửi Dùng mới lặng lẽ vào ôm vợ. Người đàn bà của Dùng buồn tủi, khổ đau sao vẫn căng mọng, hừng hực? Tất cả là tại Dùng, tại Dùng… Vợ bỏ đi vì thương Dùng, thương và sợ cha mẹ chồng… Páo trở về sau những ngày lang thang khắp cao nguyên. Núi đá trùng điệp, cây rừng trùng điệp… Không tìm được mẹ cho cha, Páo phải về... Chiều. Cha ngồi lặng phắc bên dòng Nho Quế. Sương trắng thả những sợi khói lượn trên mái đầu cha. Đôi mắt cha xoáy cái nhìn vào dòng sông. Con sông nơi cha đã sinh ra, lớn lên và cha nhìn vào nó mỗi ngày. - Con về cha à. Cha nhìn Páo. Cái nhìn như đón chờ như không. Nhưng Páo biết trong đôi mắt cha là tình yêu thương nhiều hơn đá núi, dài hơn sông Nho Quế. Páo lại gần cha, hai cha con ngồi bên nhau thành hai tảng đá như bao buổi chiều khác. Lặng phắc. Đau đáu. Đợi chờ… Cha không hỏi gì thêm. Cha sợ câu trả lời của Páo!… Cha con Páo tiếp tục những ngày tháng lầm lụi, miệt mài, xa bản, xa ngôi nhà nhỏ trên mảnh đất tổ tiên họ Sùng. Mỗi lần trở về bản cũ đôi chân Páo càng thấy lạ lẫm với những lối mòn. Rừng đã bị phá nhiều. Cha cố tình để thêm nhiều ngô lại sau mỗi vụ thu hoạch mà không có con thú lớn nào tìm đến ăn. Duy chỉ có loài chuột. Nhưng loài chuột không phải là loài cha Páo mong đợi. Cha ghét loài chuột và đặt những chiếc bẫy chỉ loài chuột mới có thể bị sập. Chúng không dám đến nữa. Mưa xuống bắp ngô trên xác cây oải ra. Hạt ngô trơ ra thô lố. Những cái mầm nảy trên bắp ngô. Cha nhìn những bắp ngô tua tủa mầm xanh như đang nhìn vào vết thương... Cha con Páo lại tiến sâu vào trong rừng, tiến dần lên đỉnh núi. Páo nhận ra hai cha con đang cách xa cuộc sống con người. Mỗi khi bắt gặp một đứa con gái, cái bụng Páo rạo rực, máu trong người sôi lên. Páo muốn chạy theo nó. Nhưng Páo không biết thổi khèn, không biết nói những lời một đứa con gái thích nghe. Nhiều khi Páo thấy cuộc sống thật tẻ nhạt, nhàm chán. Tháng năm cứ nối tiếp những cuộc ra đi, làm những công việc lầm lụi... và chờ và đợi. Đã mấy lần chuyển nương rồi. Páo mệt mỏi. Páo muốn về nhà, để không còn cảm thấy thèm một bóng người mỗi khi nhìn con chim bay về rừng nữa. Páo mong được như lũ trai bản dắt ngựa xuống chợ không mua gì, chỉ uống rượu rồi ngắm lũ con gái cho no con mắt. Páo thèm bóng dáng một đứa con gái. Páo thèm được nghe một người nào đó gọi tên... Những bông hoa cải vẫn nở theo bước chân cha con Páo mỗi lần chuyển nương. Có lẽ càng tiến sâu vào rừng, lên đỉnh núi cao sương gió nhiều nên mỗi mùa cải lên ngồng, Páo lại thấy món rau cay như cay hơn, đắng hơn. Cha con Páo vẫn nhấm nháp vị cay của ngồng cải mỗi mùa. Bữa cơm giàn giụa nước mắt vì cay... « Cha à ! Ta về đám nương nhà họ Sùng, gần ngôi nhà họ Sùng thôi. Chính quyền không cho đi như thế này nữa đâu !». Páo nói với cha khi chính quyền cho người gọi cha con Páo về trụ sở xã. Cha Páo không về, Páo phải đến gặp họ. Hai ngày đường về với cha, Páo gặp một đứa con gái. Páo không biết nó ở đâu, tên gì. Nhưng khi Páo nhìn nó, nó nhìn lại Páo. Nó lao xuống dốc để lại tiếng cười làm con tim Páo muốn vọt ra khỏi lồng ngực. Páo không đuổi kịp nó. «Cha đợi lũ khỉ ấy làm gì. Người ta đã bắn hết khỉ rồi. Cha đừng tìm nữa cha à ! ». Câu nói của Páo làm lửa trong cha bùng lên. Cha vùng đến, hai tay xiết chặt hai vai Páo. Cha hét lên : «Cái đầu mày tối như đầu con trâu trong góc chuồng. Tao phải chờ. Bầy khỉ không bị giết. Rồi nó sẽ về thôi !». Páo run rẩy trước hành động quá bất ngờ của cha. Đôi mắt cha vằn những tia đỏ ngầu. Rồi cha rũ xuống khóc rưng rức. Lần đầu tiên cha Páo khóc như thế. Páo đứng như cây sa mộc chết lặng. Páo thấy thương cha, thấy cái miệng Páo như cái miệng con rắn xanh rồi. Cha ngẩng lên, gương mặt đanh lại, không còn một giọt nước nào trên khoé mắt. Cha nhìn Páo đáu đáu, xám bạc một màu đá. «Hổ ăn thịt người thì ngủ say. Người làm chuyện ác thì ngủ không được. Mày lớn thật rồi Páo à. Tao phải nói cho mày biết để mày không làm chuyện ác nữa”. ...Ngày trẻ Dùng là tay săn thiện xạ. Dùng có khả năng hơn người bởi Dùng có thể phân biệt được tiếng bước chân, tiếng thở của từng con thú khi chưa nhìn thấy chúng. Những cuộc đi săn của đàn ông con trai trong bản không thể thiếu Dùng. Con thú nào gặp Dùng sẽ không bao giờ được về với rừng nữa. Nhưng một lần đi săn cùng phường Dùng đã bắn nhầm con khỉ có chửa. Hình ảnh con khỉ con mắt mở trừng trừng, nằm gọn trong bụng con khỉ mẹ bị rạch một đường từ cổ tới đuôi làm Dùng không dám nhớ đến lời đàn bà thường dặn đàn ông trước khi xách súng vào rừng : “Đừng giết khỉ có chửa mà gặp nghiệp báo!”. Không người đàn ông nào nhớ lời vợ dặn khi qua cửa rừng vì họ không tin. Nhưng hình như chưa người đàn ông nào ở bản Hồ Thầu giết khỉ có chửa. Dùng không dám kể với cha mẹ buổi đi săn ấy. Dùng cũng không trả lời cha mẹ tại sao không đi săn nữa. Đó là lần đi săn cuối cùng trong đời Dùng. Vợ Dùng là cô gái đẹp nhất vùng Tản Kha Van. Đẻ một đứa con vợ Dùng càng đẹp. Dùng yêu vợ cuồng nhiệt hơn gió quất cây rừng, nước xiết trên ghềnh đá. Hằng đêm Dùng sờ vào bụng vợ, bàn tay nóng hôi hổi. Chả thấy gì. Dùng lại áp tai vào bụng vợ nghe ngóng, hồi hộp chờ đợi. Bụng vợ Dùng vẫn phẳng lì, mềm mại và ấm. Hàng tháng, vợ Dùng vẫn phải ăn thật nhiều hạt tiêu rừng để được gần chồng nhiều hơn. Nhiều đêm Dùng lại mơ thấy con khỉ mẹ nằm ngửa với cái bụng bị rạch toang hoác, con khỉ con nằm bên trong đôi mắt mở to kì lạ, trừng trợn. Dùng hoảng hốt, tiếng hét của Dùng làm vợ Dùng tỉnh giấc. Sáng ra, khi vợ nhìn, Dùng không dám ngước lên. Gặp đàn bà chửa Dùng không dám nhìn. Cha mẹ Dùng đã dắt về nhà một đứa con gái. Người nó căng tròn, đôi bầu ngực thây lẩy. Đêm đó, Dùng uống rượu nhà một người trong bản, rồi về lần vào buồng với vợ. Dùng đổ ụp xuống tấm thân nằm nghiêng nghiêng trên giường. Dùng khựng lại. Lâng lâng say nhưng Dùng vẫn phát hiện ra cái mùi này không phải mùi vợ. Dùng lao ra ngoài. Dùng ngửi thấy trong gió còn mùi vợ. Đêm đó Dùng không tìm được vợ. Hơn một năm Dùng đến Tản Kha Van hàng trăm lần. Con ngựa chở Dùng quá chán nản với đoạn đường quen thuộc. Người nhà họ Vàng, người trong vùng biết mười mươi vợ Dùng đã bỏ đi vì không biết đẻ. Họ dần quên vì con gái họ Vàng đã thành người họ Sùng. Sống hay chết thì cũng ở nhà họ Sùng. Riêng Dùng thì không quên. Chỉ nhớ và đau thêm. Dùng nghe ngóng và hễ có tin gì là Dùng lại dắt ngựa đi. Những cuộc đi lần sau dài hơn lần trước. Dùng còn tin, còn hi vọng. Sức lực cha mẹ Dùng như nước trong quả bầu khô, sắp cạn kiệt. Họ cố chắt từng giọt, từng g iọt để chờ. Họ đã không được thấy thêm đứa cháu trai của họ Sùng. Cha mẹ oán trách Dùng. Người đàn bà bố mẹ Dùng dắt về cũng không thể hoá đá chờ người đàn ông không bao giờ đụng vào người mình. Người đàn bà ấy lặng lẽ ra đi khi chưa thực sự được làm đàn bà. Đã mấy năm người Lùng Chín Thượng không thấy Dùng dắt ngựa đi xa. Hay chân người và chân ngựa đã mỏi? Người trong vùng lại thấy Dùng hùng hục cõng phù sa ở dòng Nho Quế lên trồng ngô, hết đám nương ở vùng này lại sang phát đám nương ở vùng khác. Một lần tìm vợ ở vùng xuôi, Dùng nghe được một bài thuốc chữa bệnh cho những đôi vợ chồng không có con. Bài thuốc ấy lại liên quan đến một lời nguyền về loài khỉ nên Dùng càng tin. Dùng mang một niềm tin mãnh liệt vào bài thuốc và công việc ấy sẽ làm cho lòng Dùng đỡ day dứt ân hận hơn. Dùng cũng tin sẽ có ngày vợ Dùng trở về. Loài tầm gửi trên thân cây kim lăng trong những cánh rừng thâm u không quá khó tìm đối với Dùng. Nhưng bầy khỉ thì không dễ tìm. Chúng ngày càng ít xuất hiện hơn. Thú rừng bị săn nhiều nên chúng ngày càng xa lánh con người. Dùng không thể vào rừng để tìm lũ khỉ. Thứ Dùng cần lấy ở lũ khỉ chỉ có thể tìm thấy ở trên đá. Chỉ trên đá thứ ấy mới chữa được bệnh. Dùng dựng lều cho hai cha con ngày ngày bền bỉ cõng những quẩy tấu chất đầy phù sa, những ống chứa đầy nước đổ vào từng hốc đá, từng gốc cây. Dùng quần quật khuân những tảng đá bằng phẳng đặt rải rác trên nương. Dùng chờ đợi… Dùng không phải đợi lâu. Đám nương đầu tiên Dùng khai phá ngô chín căng nứt bẹ, nhe những chiếc răng trắng như răng ngựa non. Lũ khỉ đến. Nhiều khỉ cái đuôi nhèm nhẹp máu ngồi trên đá. Nhưng chúng không để lại gì. Một buổi sáng, tim Dùng như muốn vỡ tung. Trước mắt Dùng, trên một vết lõm bằng ngón tay ở tảng đá trắng đầy tràn thứ chất lỏng màu nâu đen. Huyết lình! Huyết lình thật rồi! Dùng như không tin vào mắt mình, chỉ thấy nước mắt cứ từ từ bò ra, lăn trên đôi gò má sạm đi vì sương gió. Dùng lấy một chiếc muỗng nhỏ tí tự làm để lấy huyết lình. Sau lớp màng nâu là thứ chất sền sệt đỏ rực như mào gà trống. Nhiều người đàn bà tìm đến Dùng. Dùng không còn mơ thấy con khỉ cái tội nghiệp ấy nữa. Dùng không sợ nhìn đàn bà chửa. Dùng mong những người đàn bà Dùng cho thuốc đến với cái bụng nặng nề nhưng khuôn mặt thì nhẹ nhàng, thanh thản, ánh mắt mãn nguyện nói với Dùng họ sắp có con, dòng họ nhà chồng đã có người nối. Họ về mang cả niềm vui của Dùng đi theo… Có nhiều đêm Dùng thấy thân thể mình căng lên. Dùng nhớ mùi vợ, nhớ tấm thân tròn lẳn của vợ. Dùng vật vã. Dùng lao xuống dòng Nho Quế. Thân người Dùng thì nóng, dòng nước thì lạnh nhưng trong lòng cả hai cùng lồng lộn, bạo liệt… “Vì tao làm chuyện ác nên họ Sùng bị trời phạt. Tao phải chuộc tội với thần rừng, với họ hàng nhà khỉ. Cải lên ngồng, cải chết mấy mươi lần rồi. Mẹ mày không về rồi, Páo ơi!”. - Cha ôm mặt khóc tu tu… Cha con Páo lại đi. Páo sẽ cùng cha chuộc tội với thần rừng, với loài khỉ. Páo muốn cha được yên cái bụng. Lại những mùa rau cay. Páo cũng đi tìm mẹ vài lần nhưng vô vọng. Cha không cho Páo đi nữa…Cha sợ Páo đi xa. Nhìn vào mắt cha, Páo biết. Cha con Páo không thể trở về bản Hồ Thầu được nữa. Lũ quét, núi lở cả bản đã chuyển đi nơi khác rồi. Ngôi nhà nhỏ và mảnh đất nhà họ Sùng cũng không còn. Cha con Páo về đó để nhìn cái buồn, cái đau à? Cuộc sống con người càng xa với hai cha con. Một buổi có hai người đàn ông lạ vác súng vào rừng. Cha Páo ngăn họ nhưng không được. Một thằng chửi cha: “Cái thằng Sùng Mí Dùng kia, mày vẫn là thằng trẻ con thôi. Mày có quyền gì mà cản chúng tao, rừng là của chung, tao thích thì tao vào!”. Cha lao vào hai cái thằng đó. Páo cũng vọt ra như một con thú, hai thằng đó lủi mất. Cha ngồi bệt trên đá khóc, khóc ồ ồ như tiếng nước chảy. Páo nhìn cha, tim Páo bị một bàn tay nào đó bóp nghẹt. Páo nghi ngờ cha vì Páo vẫn chưa quên câu chửi của thằng đó. “Nó là con rắn độc, con hổ dữ, mày đừng tin! Tao đẻ ra mày, tao không phải mang chữ “Mí”!”. Páo chỉ có cha. Páo không tin cha thì tin ai? Nhưng nọc của con rắn độc ngấm vào Páo, càng làm Páo đau mỗi ngày, Páo lại phải nghĩ về câu chửi của nó… Hình như cha đã nghe được những tiếng thở dài của Páo. Páo đã mơ từng đêm, thở dài từng đêm…Nhiều đêm Páo giật mình bởi tiếng một đứa con gái gọi tên Páo. Páo tỉnh dậy thì chỉ là tiếng lá rên rỉ, tiếng oằn oại vọng lên từ dòng sông. Cha càng lùi lũi như con ngựa già. Hai con mắt muốn tụt vào tận sâu. Cái nhìn thì xa vời vợi, mênh mang. Khi cha ngồi trên nương, hướng về dòng sông đang quằn quại vượt ghềnh đá Páo thấy như không phải cha đang ngồi đó. Hồn cha như đã bay theo đám mây, trôi theo dòng nước. Bên Páo chỉ là sự hiển hiện của mỏm đá vô hồn. Mọi cái vui, cái buồn không còn trên mặt cha. Mới vào mùa đông mà cỏ đã chết trắng trong những hốc đá vì hai tháng không có mưa. Những cây cải cũng héo quắt, chút nước cha con Páo cõng lên từ sông không làm cho nó hết khát. Mắt cha rân rấn khi nhìn những cây cải. Cải cứ nhẳng ra, ngồng thì lại lên nhanh. Những cái ngồng của mùa khô hạn ăn càng cay hơn. Cha con Páo vẫn hái ngồng cải làm rau cay… Một đêm hai cha con nằm nghe tiếng thở của nhau cho đến sáng. Cha dậy, Páo cũng chui ra khỏi chăn. Cha trân trân nhìn bếp lửa rừng rực cháy, đôi bàn tay vân vê những sợi thuốc. Những sợi thuốc vê đi vê lại tròn vo. Mấy lần điếu thuốc tuột khỏi tay cha. Cha làm lại điếu khác, chiếc tẩu sắp rơi khỏi miệng. Rồi cha bỏ cả tẩu và thuốc. Cha rân rấn nhìn Páo. Soi vào mắt cha, Páo biết cha đang cảm thấy khó khăn khi sắp nói ra một điều gì cất sâu lắm trong bụng. Đám lửa như chui vào bụng Páo. Cha tránh đôi mắt chờ đợi của Páo. Cha nhìn vào lửa, mong lửa làm cho lòng cha ấm lên! Cha nuốt khan một cách khó nhọc. - Páo à ! Mày đi tìm cha đẻ mày đi ! Tao không đẻ ra mày. Mày không phải họ Sùng đâu. Tao chưa được làm người lớn. Tao không thể giữ mày. Mày phải tìm cha đẻ, nhận lại họ. Xong rồi đi tìm người đàn bà của đời mày. Tao không đi đâu được nữa. Tao phải ở lại rừng. Phải trả món nợ... Người cha run run nhưng từng lời từng câu sao rõ thế. Páo thấy đầu Páo như bị ai lấy đá đập vào. Và trong Páo dòng sông đang cạn dần, khô khốc, trơ ra những mỏm đá như mũi chông và mắt lũ cá trợn lên, trắng dại. - Cha, cha già nên nói lẫn rồi à ? Con...c...o...n... ! Cổ họng Páo ắng lại. Ở đó có một cục đá hay một cái gai chẹn ngang. Mắt Páo tối sầm. - Mày phải nghe tao chứ. Không đẻ được một thằng con như mày nên vợ tao mới phải bỏ nhà họ Sùng đi. Mày ngã xuống sông, cái đầu mày quên nên tao đã nói sai với mày. Tao phải nói thế, tao sợ mày bỏ đi… Nhưng bây giờ mày như con chim đủ lông đủ cánh rồi, tao không giữ chân mày được. Tao không được lấy họ của mày. Lấy họ mày là làm chuyện ác . Họ nào sinh ra mày, mày phải trở về họ đó. Mày nghe, nhớ lấy, rồi đi đi... .... - Một buổi sáng có thằng đàn ông mang một thằng trẻ con mới đẻ đến gặp tao. Nó đã tìm tao mấy ngày. Vợ nó ngày trước tao cho thuốc. Nó không tin thuốc của tao. Nó không tin vợ nó. Nó bảo thằng trẻ con không phải con nó. Vợ nó chết vì bị nó chửi. Nó để lại thằng trẻ con cho tao rồi bỏ đi không bao giờ quay lại nữa... Cha nhìn vào mắt Páo. Páo thấy trong hai hõm mắt trũng sâu có thứ nước đặc sệt rịn ra. - Thằng trẻ con là mày, Páo à. - Giọng cha Páo lạc đi. Páo ôm cha. Nước mắt Páo rơi vào những sợi tóc bạc đổ gục trên đầu cha xơ xác. Páo nói với cha Páo không đi đâu. Páo không đi tìm cái người bỏ Páo. Páo là người họ Sùng! Chỉ có cha là cha của Páo thôi. Cha câm lặng mấy ngày, Páo hỏi câu gì cũng không nói. Núi cao, rừng cây thế này, Páo biết đi đâu. Nhưng đêm về Páo thấy một nỗi khát thèm. Páo cố nén lại để ở bên cha, nhưng càng nén người Páo càng muốn nổ tung. Páo thấy thèm một đứa con gái… Bữa cơm tiễn Páo đi, cha hái những cái ngồng héo quắt vì hạn làm rau cay. Những chiếc ngồng cải ngâm trong nồi nước xôi vẫn xanh ngắt, cay xè nơi đầu lưỡi, cay lên mũi, lên mắt. Cha gắp thêm một cái ngồng cải cho Páo, nói: - Ăn đi để nhớ! Như lũ dê nhớ túi muối treo cửa chuồng, đi khắp núi đồi vẫn biết tìm đường mà về, con trai à! Làm sao Páo có thể quên cha, quên ngôi nhà đã chở che Páo, quên những lối mòn về bản Hồ Thầu, nơi ngày xưa có ngôi nhà nhỏ và mảnh đất của họ Sùng. Cọng rau ứ lại trong cổ họng Páo nghẹn ngào, cay cay. Páo đứng trước bàn thờ tổ tiên họ Sùng thắp hương vái lạy. Cúi chào cha. Páo đi, đi thật… Bước chân nặng trĩu, không biết là do đá dưới chân hay tiếng thở dài phía sau. Páo nhìn tất cả đều nhoà đi và nghe có tiếng mưa. Tiếng mưa âm thầm trong bụng thằng trai Mông hơn hai mươi tuổi. Páo cũng không biết là sẽ đi đâu. Chân Páo dẫm lên những mỏm đá sắc nhọn, nhói đau… Páo ngoái đầu lại, không thấy bóng cha đâu. Chỉ còn bạt ngàn ngồng cải đang rũ rượi, khô héo trong gió rét.
Thơ... thẩn... Thẩn... thờ! CÂY DỪA NƯỚC Hồ Kiên Giang Nhà tôi ở rìa con sông nhỏ Cây dừa nước xác xơ Bông lục bình trôi tím rịm nắng chiều Thuở đó Tôi thường chạy ra bờ sông đón má Má đi chợ về con xuồng lấm nước phù sa Tôi thường chạy ra bờ sông đón tía Tía đi ruộng về vai áo vá váng phèn chua Sau nhiều năm lưu lạc Tôi trở lại bến sông xưa Sông bao kỳ nước ròng nước kiệt Miệt vườn tôi lá rụng bao mùa Cây dừa nước bơ vơ trước ngõ Tôi thương về một thời ấu thơ Căn nhà vắng Gió lay lay quờ tay vào khoảng trống Nền nhà rêu xanh chưa bén hơi người Đâu dáng má tảo tần khuya sớm Đâu dáng tía ngày mưa ngồi uống rượu Câu vọng cổ buồn như kiếp sống trầm luân Trước di ảnh lạnh màu hương khói Tôi thầm gọi tía má Ngôi nhà cũ bời bời trút lá Tôi gọi bông lục bình rưng rức tuổi thơ tôi Gọi mây trắng trên trời Gọi cỏ xanh trên đất Tôi gọi tôi là cây dừa nước mồ côi!
Thơ... thẩn... Thẩn... thờ! ĐIÊN ĐIỂN HOA VÀNG Hồ Kiên Giang Đang mùa điên điển trổ hoa Cánh đồng vàng dịu như là nắng lên Thuyền ai xuôi ngược bưng biền Đi hoài chưa hết màu điên điển vàng Từ nơi gò đất đồng hoang Từ nơi bia mộ, xóm làng xác xơ Cây ngăn lũ lụt xô bờ Màu hoa vàng đến ngẩn ngơ lòng người Vàng trong gió thổi tơi bời Vàng trong cơn lũ ngang trời nước lên Những năm lửa cháy, bom rền Nhà xiêu, hoa nở trên nền đất đau… Hoa vàng câu hát trao nhau Yêu màu hoa nở trong màu áo ai Bao đời như chẳng tàn phai Nghe bình yên mỗi ban mai hoa vàng Bắc cầu anh dắt em sang Có dòng nước thả mơ màng về đâu Mai ngày dòng sông đưa dâu Vàng hoa điên điển nối cầu ta qua.
Còn gặp nhau hãy cứ vui Chuyện đời như nước chảy hoa trôi Lợi danh như bóng mây chìm nổi Chỉ có tình thương để lại đời. Còn gặp nhau hãy cứ thương Tình người muôn thuở vẫn còn vương Chắt chiu một chút tình thương ấy Gởikhắp muôn phương vạn nẻo đường Còn gặp nhau hãy cứ chơi Bao nhiêu thú vị ở trên đời Vui chơi trong ý tình tao nhả Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời Còn gặp nhau hãy cứ cười Cho tình thêm Ấm ý thêm tươi Cho hương thêm ngát đời thêm tươi Cho đẹp lòng nhau cả mọi người Còn gặp nhau hãy cứ chào Giữa miền đất rộng với trời cao Vui câu nhân nghĩa tròn sau trước Lấy chử chân tình gởi tặng nhau Còn gặp nhau thì hãy cứ say Say tình say nghĩa bấy lâu nay Say thơ say nhạc say bè bạn Quên cả không gian lẩn tháng ngày...
Đôi Bờ Sắc Không ***** Nhiều lúc bỏ đời lên với núi Đạo giữa ngàn cây rêu đá xanh Thong dong con suối tình vô lượng Hoa nắng trên cành mai long lanh Chim hãy cùng ta riu rít hót Bỏ đời xuôi ngược chuyện đua tranh Lợi chi mái tóc như mây trắng Cố quận ngàn năm giữ mộng lành Tinh lặng chợt nghe tâm sóng vỗ Mấy thuở ra đi lắm đoạn trường Kinh hoàng biển thét gào bi thảm Trang sử hãi hùng chuyện máu xương Bằng hữu bây giờ hiu hắt bóng Bên trời như gió thoảng đìu hiu Tử sinh ly rượu hoài cay đắng Thế sự nhiễu nhương buổi xế chiều Lên núi dạo chơi cùng mây trắng Một ngày ngơi nghỉ trụ an tâm Rừng lạ vô danh như tiền sử Giọt sương khép nép cánh hoa vàng Thời gian miên viễn vô cùng tận Thăm thẳm nghìn xa cõi núi sông Lên cao buông bỏ đời hư huyễn Phá chấp đôi bờ sắc với khôngS.T.
Tản mạn! Ngày này của 7 năm về trước... Tôi đang say sưa giảng giải cho em về Vi phân, Tích phân... thì cô nhỏ học trò "bất đắc dĩ" của tôi lúng túng, ngượng ngịu, mặt đỏ rần... đưa cho tôi 1 tờ giấy học trò gấp làm 4... lí nhí... Anh... giải dùm em cái đề này... Đưa tờ giấy xong, cô nhỏ lẩn xuống nhà sau... Đó là 1 bài thơ của Nguyễn Trung Kiên... "Tặng Anh"... Cô nhỏ đề như vậy... Đôi Dép Bài thơ đầu tiên anh viết tặng em Là bài thơ anh kể về đôi dép Khi nỗi nhớ trong lòng da diết Những vật tầm thường cũng viết thành thơ Hai chiếc dép kia gặp nhau tự bao giờ Có yêu nhau đâu mà chẳng rời nửa bước Cùng gánh vác những nẻo đường xuôi ngược Lên thảm nhung, xuống cát bụi cùng nhau Cùng bước, cùng mòn, không kẻ thấp người cao Cùng chia sẻ sức người đời chà đạp Dẫu vinh nhục không đi cùng kẻ khác Số phận chiếc này phụ thuộc ở chiếc kia Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi Mọi thay thế đều trở thành khập khiễng Giống nhau lắm nhưng người đi sẽ biết Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu Cũng như mình trong những lúc vắng nhau Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía Dẫu bên cạnh đã có người thay thế Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh Đôi dép vô tri khăng khít song hành Chẳng thề nguyện mà không hề giả dối Chẳng hứa hẹn mà không hề phản bội Lối đi nào cũng có mặt cả đôi Không thể thiếu nhau trên bước đường đời Dẫu mỗi chiếc ở một bên phải trái Nhưng tôi yêu em ở những điều ngược lại Gắn bó nhau vì một lối đi chung Hai mảnh đời thầm lặng bước song song Sẽ dừng lại khi chỉ còn một chiếc Chỉ còn một là không còn gì hết Nếu không tìm được chiếc thứ hai kia ... Tôi tưởng rằng... "đôi dép" này sẽ theo tôi, khắng khít bên tôi suốt cả cuộc đời... Nhưng... có lẽ vì "đôi dép" của tôi đc làm thủ công... và do chất liệu kg đc đồng đều nên khi bị "bị sức người chà đạp", thời gian... và đủ thứ tác động khách quan lẫn chủ quan mà nó bị mòn gót, vẹt mũi, đứt quai... kg đồng đều... Mỗi bước tôi đi đều cảm thấy "chông chênh", kg còn đc vững chãi như xưa. Hai chiếc dép đôi khi dẫm đạp lên nhau, đôi khi chiếc đi chiếc ở lại... Dần dần chúng thật sự kg còn "khắng khít bên nhau" nữa... chúng xa nhau dần... xa dần... xa mãi... Xa... Cho đến hôm nay, chúng thật sự mất nhau... Vừa tròn 7 năm! Chẳng biết ngày xưa, chúng có là 1 đôi thật sự hay kg? Hay chỉ là "giống nhau lắm" mà mình kg nhận ra??? Sưu tầm
Lãng... đãng về... Đôi Dép! Vào một đêm mưa gió bão bùng... có 3 chàng lãng du cùng trú mưa trong hàng ba của 1 căn nhà sang trọng, khi vào rồi, họ mới biết đó là Quán ăn của "Tây Lương Nữ Quốc"... Trên tay 3 chàng lãng tử cầm 3 chiếc... dép rách bươm... Thật là xui rủi (hay là may mắn kg biết nữa) khi quán đã đóng cửa. Xui vì bụng đói meo mà quán lại cửa đóng then cài, hên vì nếu quán còn mở cửa thì 3 chàng... biết lấy gì để mà trả tiền ăn??? Bởi vì rằng.. thì.. mà... là... cả 3 chàng đều chịu cơn "Bão lốc xoáy" của Miền Nam thổi bay ra Miền Bắc... rồi lại lại bị Bão từ "Vịnh Bắc Bộ" đẩy ngược lại lại Miền Nam... Nhìn 3 chàng... Thảm vô cùng... Thảm. Nhìn trời bão bùng... 3 chàng nhìn 3 chiếc... dép và bắt đầu rị mọ... hì hục... sắp sắp... xếp xếp... lật tới lật lui... để mong sao xếp 3 chiếc dép đc thành 1 đôi tương đối hoàn chỉnh. Nhưng càng sắp thì lại càng kg ra cái gì... chỉ là những hình thù... Quái dị, khi thì nhìn giống như "đôi đũa", khi thì lại giống như "đôi guốc" và cũng có khi... chẳng ra hình thù gì cả... Người đời hay gọi 3 chàng là những "Lãng tử". Còn bản thân 3 chàng thì nghĩ rằng... mình còn có chút... Lãng... xẹt... Lãng... đãng... và đôi khi... Lãng... nhách nữa hihihi hehehe
Đôi dép "Thì Cần" - Đôi dép "Thần Kỳ"! ĐÔI DÉP THẦN KỲ Phạm Hổ Các em đọc cổ tích Chắc rất thích được gặp Những đôi giày thần kỳ Một bước đi bảy dặm Còn nhanh hơn chim bay Thế kỷ hai mươi này Ở tại một nước nọ Có nhiều núi, nhiều sông Có nhiều mưa, nhiều gió Có cờ đỏ sao vàng Có mùa khoai, mùa lúa Có đôi dép thần kỳ Một cụ già thường đi... Người làm đôi dép này Cắt lốp xe làm đế Cắt săm xe làm quai Dép đen màu than đá Hình dáng nhìn rất ngộ Như đôi xà lan nhỏ Thích lênh đênh sông dài. Theo cụ già xuống biển Theo cụ già lên non Được cụ già yêu thương Dép có bao tài sức: Đê sắp vỡ, vì lụt Có dép đến, lụt lui Ruộng nứt nẻ cả rồi Có dép về, nước đến Nơi nào quá nghèo túng Dép tới, đỡ túng nghèo Nơi nào dân thiếu chữ Dép tới, chữ về theo Hỏi dép: Sao tài giỏi? Dép thật thà đáp ngay: Dép trước sau vẫn dép Tài trí ở người đi Tài trí ở cụ già Biết gọi người cả nước Triệu người chung một lòng Giành tự do, độc lập Biết dẫn cả trẻ, già Biết đánh thức gần, xa Cùng lên đường hạnh phúc. Cụ già râu tóc bạc Mang đôi dép thần kỳ Em có biết là ai? Là Bác Hồ mình đó! Bác Hồ của Việt Nam Có nhiều núi nhiều sông Có nhiều mưa nhiều gió Có cờ đỏ sao vàng Có mùa khoai, mùa lúa Có đôi dép thần kỳ Anh làm thơ hôm nay... Nhưng hôm nay, hôm nay Bác Hồ không còn nữa Vắng tiếng dép Bác Hồ Cả Việt Nam thương nhớ Cả loài người thương nhớ... Đôi dép thần kỳ đó Giờ theo Bác đi xa Đi vào trong lịch sử Chói ngời của dân ta Theo Bác dép đi xa Phép thần kỳ để lại Các em hãy giữ lấy Trong đôi dép của mình Dù dép to, dép nhỏ Dù dép đỏ, dép xanh Miễn các em làm đúng Lời Bác Hồ Chí Minh! Đôi dép của Bác “ra đời” vào năm 1947, được “chế tạo” từ một chiếc lốp ôtô quân sự của thực dân Pháp bị bộ đội ta phục kích tại Việt Bắc. Đôi dép đo cắt không dày lắm, quai trước to bản, quai sau nhỏ rất vừa chân Bác. Trên đường công tác, Bác nói vui với anh em cán bộ đi cùng: - Đây là đôi hài vạn dặm trong chuyện cổ tích ngày xưa... Đôi hài thần đất, đi đến đâu mà chẳng được. Chẳng những khi “hành quân” mà cả mùa đông, Bác đi thêm đôi tất cho ấm chân, tiếp khách trong nước, khách quốc tế vẫn thường thấy Bác đi đôi dép ấy. Gặp suối hoặc trời mưa trơn, bùn nước vào dép khó đi, Bác tụt dép xách tay. Đi thăm bà con nông dân, sải chân trên các cánh đồng đang cấy, đang vụ gặt, Bác lại xắn quần cao lội ruộng, tay xách hoặc nách kẹp đôi dép... Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy... Các đồng chí cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin” Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được”. Cho đến lần đi thăm Ấn Độ, khi Bác lên máy bay, ngồi trong buồng riêng thì anh em lập mẹo giấu dép đi, để sẵn một đôi giày mới... Máy bay hạ cánh xuống Niu Đêli. Bác tìm dép. Anh em thưa: - Có lẽ đã cất xuống khoang hàng của máy bay rồi... Thưa Bác... Bác ôn tồn nói: - Bác biết các chú cất dép của Bác đi chứ gì. Nước ta còn chưa được độc lập hoàn toàn. Nhân dân ta còn khó khăn. Bác đi dép cao su nhưng bên trong lại có đôi tất mới thế là đủ lắm mà vẫn lịch sự... Thế là các ông “tham mưu con” phải trả lại dép để Bác đi vì dưới đất chủ nhà đang nóng lòng chờ đợi... Trong suốt thời gian ở Ấn Độ, các chính khách, nhà báo, quay phim, chụp ảnh lại rất quan tâm đến đôi dép của Bác. Họ cúi xuống sờ nắn quai dép, thi nhau bấm máy từ nhiều góc độ, ghi ghi chép chép... làm anh em cảnh vệ lại phải một phen xem chừng và bảo vệ “đôi hài thần kỳ” ấy. Năm 1960, Bác đến thăm một đơn vị Hải quân nhân dân Việt Nam. Vẫn đôi dép “thâm niên ấy”, Bác đi thăm nơi ăn, chốn ở, trại chăn nuôi của đơn vị. Cán bộ và chiến sĩ rồng rắn kéo theo, ai cũng muốn chen chân, vượt lên để được gần Bác, Bác vui cười nắm tay chiến sĩ này, vỗ vai chiến sĩ khác. Bỗng Bác đứng lại: - Thôi, các cháu giẫm làm tụt quai dép của Bác rồi... Nghe Bác nói, cả đám dừng lại cúi xuống yên lặng nhìn đôi dép rồi lại ồn ào lên: - Thưa Bác, cháu, để cháu sửa... - Thưa Bác, cháu, cháu có “rút dép” đây... Nhao nhác, ầm ĩ như thế, nhưng đồng chí cảnh vệ chỉ đứng cười vì biết đôi dép của Bác đã phải đóng đinh rồi; có “rút” cũng vô ích... Bác cười nói: - Cũng phải để Bác đến chỗ gốc cây kia, có chỗ dựa mà đứng đã chứ! Bác “lẹp xẹp” lết đôi dép đến gốc cây, một tay vịn vào cây, một chân co lên tháo dép ra, “thách thức”: - Đây! Cháu nào giỏi thì chữa hộ dép cho Bác... Một anh nhanh tay giành lấy chiếc dép, giơ lên nhưng ngớ ra, lúng túng. Anh bên cạnh liếc thấy, “vượt vây” chạy biến... Bác phải giục: - Ơ kìa, ngắm mãi thế, nhanh lên cho Bác còn đi chứ. Anh chiến sĩ lúc nãy chạy đi đã trở lại với chiếc búa con, mấy cái đinh: - Tôi, để tôi sửa dép... Mọi người giãn ra. Phút chốc, chiếc dép đã được chữa xong. Những chiến sĩ không được may mắn chữa dép phàn nàn: - Tại dép của Bác cũ quá. Thưa Bác, Bác thay dép đi ạ... Bác nhìn các chiến sĩ nói: - Các cháu nói đúng... nhưng chỉ có đúng một phần... Đôi dép của Bác cũ nhưng nó chỉ mới tụt quai. Cháu đã chữa lại chắc chắn cho Bác thế này thì còn “thọ” lắm! Mua đôi dép khác chẳng đáng là bao, nhưng khi chưa cần thiết cũng chưa nên... Ta phải tiết kiệm vì đất nước ta còn nghèo...
THƠ VUI VỀ TIỀN ***** Tiền là cái vật chi chi Tiền là tờ giấy số ghi rõ ràng Có tiền phú quý giàu sang Không tiền lắm kẻ cơ hàn điêu linh Có tiền lắm kẻ chung tình Không tiền nó đá cho mình quay lơ Có tiền kẻ đợi người chờ Không tiền bạn hữu thờ ơ chẳng nhìn Có tiền đầy đủ họ hàng Không tiền cô bác bàng hoàng chơi vơi Có tiền thỏa thích ăn chơi Không tiền làm toát mồ hôi cả ngày Có tiền sáng xỉn chiều say Không tiền bụng đói suốt ngày nằm phơi Có tiền lầu phố xe hơi Không tiền nằm ngủ chao ôi đói lòng Có tiền cưới vợ gả chồng Không tiền thì ông tơ hồng không se Có tiền anh nói em nghe Không tiền anh nói em chê anh nghèo Không tiền cuộc sống gieo neo Không tiền cam phận tèo teo một mình.
Hihihihi thanks Mụi nhiều vì đã góp ý nghen! Có điều, theo huynh nghĩ... Thơ - Truyện ngắn là 1 dòng, 1 họ - Văn học... Truyện ngắn - Dài - Tiểu thuyết là dạng Văn xuôi. Thơ cũng là 1 dạng truyện nhưng đc viết có vần có điệu mà thui hihihi. Thơ - Nhạc gắn kết với nhau như Xoài chua - nước mắm đường. Truyện - Thơ gắn kết với nhau như cafe - thuốc lá dzị mờ Mụi ơi hihihi. Ăn hoài 1 món cũng ngán. Đọc hoài Truyện ngắn thì mỏi mắt... lâu lâu đọc 1 đoạn Thơ thư giãn cũng nên chứ Mụi he. Ở Topic này... Mọi người có thể đưa suy nghĩ, cảm nhận của mình vào từng đoạn Thơ, bài Thơ nào mình cảm thấy tâm đắc... và có thể Comment thoải mái... Miễn đi đúng hướng... Văn Học... hihihi.
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ăn đòn hội đồng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Võ Thị Điềm Đạm[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phố Ba Mươi Căn nằm trên đường Hải Thượng Lãng Ông, thị xã Phan Thiết, con đường nối từ ngã tư kho bạc đến đồn lính, sân vận động Quang Trung, xóm Tỉnh. Khu phố này do một ông thầu khoán làm chủ hai nhà máy xây lúa lớn. Tên Ba Mươi Căn vì khu phố có ba mươi căn nhà nằm liên kế, giống y hệt nhau. Nghe kể là ông xây phố Ba Mươi căn này để cho thuê. Nhưng rồi ông có vợ bé ở Sài Gòn nên ông bán dần bán mòn từng căn phố. Phía trước là bệnh viện Phan Thiết nơi đã chứng kiến những vụ biểu tình tuyệt thực của phật tử và các vị sư ni thời ông Diệm; nơi đã chứng kiến tiếng kêu khóc nức nỡ, nét mặt hoảng hốt của những người vợ lính sau những trận đụng độ ớ Phú Lâm, Phú Long; nơi đã chứng kiến những người lính gan dạ tiến từng tấc đất để lấy lại Phan Thiết trong trận Mậu Thân, những người lính được đồng bào khu Phố Ba Mươi Căn vui mừng chào đón, tặng bánh tét, cốm . . . Phố bắt đầu từ tiệm tạp hoá và cũng là tiệm thuốc bắc Quãng Đắc, chấm dứt là con đường hẽm rộng nối với nhà thờ và sân vận động Quang Trung. Người dân ở phố Ba Mươi Căn không cần mua vé khi có những trận đá banh từ Sài Gòn về giao đấu, chờ đến hiệp hai là cổng mở tự do. Và mỗi lần trái banh vô, người dân ở đó được nghe một khúc nhạc khải hoàn. Những ngày có trận đá banh từ Sài Gòn về, cả khu phố rộn rịp, nhà nào cũng có người quen gởi xe đạp, hoặc người từ bên chợ hay người từ những vùng quê Đại Nẩm, Phú Hội, Phú Xuân . . . người lên kẻ xuống thật vui. Những căn nhà ở phố ba mươi căn đường Hải Thượng Lãng Ông chiều ngang chỉ có bốn mét nhưng dài thâm thẫm. Phía sau còn nhiều đất bồi từ con rạch của giòng sông Mường. Mạnh nhà nào nhà nấy cứ tự đổ đất dài ra để xây nối thêm và làm vườn. Nhưng đất ở đây là đất mới bồi nên không trồng được cây cối nhiều. Chỉ toàn là cây bần, có trái xanh nõn nà như những quà xoài non tí hon nhưng chát ngầm, vô tích sự. và thân cây thì dai nhách, chụm nấu bếp chỉ lên toàn khói đen. Đối với những người lần đầu tiên đến phố Ba mươi căn, cứ tưởng nhà nào cũng giống nhà nào, sợ đi lạc. Nhưng đã sống ở đó mới thấy mỗi căn nhà mang một sắc vẻ khác nhau. Nhà có rào lưới sắc phía trước, nhà có sân gạch rộng nối ra tới lề đường, nhà có lang cang trước cửa lớn . . . . Phía trong, nguyên thuỷ thì y hệt nhau: hai phòng lớn, nhà bếp. Nhưng nhà nào cũng xây thêm căn gác hay vài ba phòng phía sau. Gia đình Ông bà Tư Xuân mua một căn phố từ giữa thập niên 50, một trong những gia đình sống lâu năm ở phố này. Ông bà chọn mua căn phố ở đây cho tiện đường về quê của ông lẫn của bà: Đại Nẫm. Và cũng để cho lũ con bảy đứa tiện chuyện học hành, tiện cho ông Tư Xuân làm việc ở toà tỉnh. Với ông bà Tư Xuân, chuyện học hành của lũ con là trên hết, bất kể trai gái. Nhà ông bà không hề có chuyện phân trai chia gái, đứa nào cũng được đối xử như nhau, rất công bằng, đó là bài học đầu tiên trong đời cho lũ con về công bình, bình quyền, bình đẳng trong xã hội còn mang nhiều ảnh hưởng của Nho Giáo. Ông Tư Xuân chăm chút chuyện giáo dục con cái không bằng lời khuyên dạy. Cách cư xử ăn ở với họ hàng, hàng xóm, trong gia đình là mẫu mực cho con noi theo. Phòng khách được trang hoàng bằng một tấm đồ thế giới to tướng có tác dụng rất sâu cho lũ con. Ngắm nhìn bản đồ ngày này qua ngày kia, đứa nào cũng thuộc lòng tên nước, tên thủ đô, tên sông tên núi . . . trên thế giới. Thằng Năm có thể vẻ cả bản đồ thế giới ngay từ hồi nó con học tiểu học . Tuổi trẻ của các con được nuôi dưỡng bằng những quyển sách của nhà dịch giả cũng như nhà giáo Hà Mai Anh, những bộ sách của Tự Lực Văn Đoàn, thơ văn cổ điển, sách truyện hình đủ loại. Gia đình ông bà Tư Xuân chưa nếm mùi cộng sản, chưa biết thế nào là sống tập thể, làm việc tập thể . . . nhưng cách sinh hoạt của gia đình mang nhiều tính chất tập thể. Năm đứa con năm ngủ trên bộ ván gõ to tướng dầy cả gang tay trong cái mùng to tướng được đặt thợ may theo kích thước của bộ ván. Căn gác rộng thênh thang không chia phòng chỉ để một cái bàn dài hơn hai mét rộng một mét . Bàn học tập thể của lũ con, mỗi đứa có một chỗ nhất định của mình. Một kệ sách lớn tập thể, tự mỗi đứa con dành lấy chỗ để sách vở cho riêng. Một tủ sách lớn chung cho cả nhà với hàng chữ được ông nắn nón viết trên đầu tủ: Gìn Vàng Giữ Ngọc. Hai cái võng cho ông bà nằm hóng mát và bộ bàn ghế mây. Uống dầu cá cũng uống tập thể: Mỗi tối, ông Tư Xuân chia cho mỗi đứa một muỗng, từ đứa con gái lớn chồng ngồng cho đến đứa con gái út mới hai tuổi, chờ ba kêu tới phiên mình thì đứng há miệng cho ba đút cho một muỗng dầu cá. Ngậm đắng nuốt tanh mà nuốt, không dám nhổ ra, chạy ra mái nước mưa, ực một gáo nước mát lạnh cho trôi cái tanh tưởi xuống . Học cũng học tập thể: Mỗi sáng, ông Tư Xuân đánh thức bốn đứa con lớn đang học trường Phan Bội Châu dậy để học bài vì ông quan niệm là sáng sớm khí trời trong sạch, học dễ vô và nhớ lâu . Một cực hình cho thằng Năm và con Tư, hai đứa ham chơi, la cà ngoài đường suốt ngày. Con Tư di chuyển từ bàn học đến cái võng, nằm ngủ gà ngủ gật đọc mấy bài thơ đã thuộc lòng mà ông Tư Xuân đang ngồi uống trà ở nhà dưới cứ tưởng là nó đang đọc bài. May quần áo cũng may tập thể: Mỗi năm hai lần, trước khi khai trường và trước tết. Mỗi đứa một bộ bận ở nhà và hai bộ bận đi học . Đánh đòn cũng đánh tập thể nữa trời ạ! Ông bà Tư Xuân không thường đánh con cái, lũ con năm gái hai trai của bà. Nhưng hình như đứa nào cũng bị một vài cái cú đầu của ông Tư trong đời chỉ vì cái tội lơ đễnh, vụng về, hay một sự hiểu lầm nào đó. Như trường hợp con Tư . Không biết mấy chị, mấy em nó có nhớ mấy cái cú đầu của ông ba (người Phan Thiết hay nói chuyện với nhau gọi ba má là ông ba, bà má ) chứ nó thì nhớ hoài cái cú đầu của ông ba nó, nhớ suốt đời! Một buổi trưa, Ông Tư Xuân ngồi làm việc ở phòng khách, con Tư chơi lẫn quẫn gần đó. Viết hết mực, ông Tư Xuân để tiền trên bàn, biểu: - Con chạy xuống tiệm Quãng Đắc mua cho ba một chai mực Pilot màu xanh . - Dạ! Tiệm Quãng Đắc không còn mực. Con Tư chạy về, để lại tiền ngay chỗ cũ, nói: - Tiệm Quãng Đắc hết mực rồi ba . Nói xong, nó tiếp tục chơi. Ông Tư Xuân mải mê đọc, không nghe, chờ hoài không thấy chai mực đã dặn mua. Quay ra thì thấy tiền còn để đó, con Tư cũng còn chơi ở đó. Giận nó không nghe lời, ông cốc cho một cái đau điếng. Nó không dám cãi lại, tủi quá, vô kho lúa sau nhà khóc tỉ tê, ngủ quên trong đó, quên cơm chiều. Bà Tư Xuân thấy tội con, mặc dù bà không biết là nó vô tội, bà cho tiền đi ăn bánh căng. Và từ đó, con Tư nhớ đời cái cốc đầu đó . Bà Tư Xuân cũng không thường đánh con. Nhưng bà có lối trừng trị những chứng tật của lũ con một cách lạ lùng. Thường thì cha mẹ đánh con vì tình cảnh bất lực của mình trước hành động ngang ngược của con, vì nóng giận mất bình tĩnh, vì chỉ biết trút cơn giận xuống một nơi nào đó, mà đứa con là bia chịu. Bà Tư Xuân không như thế, bà quan niệm rằng: đánh con là để dạy dỗ và đánh là đánh cho đáng. Và nhất là khi đánh con, bà rất bình tĩnh, xưng má với con như khi chỉ vẻ chuyện nhà. Bà để dồn hết những tội lỗi của lũ con qua nhiều tháng, trị một lần cho đáng (hay cho đở mất thì giờ ? ) . Bà rất bận bịu chuyện đong lúa, xây gạo nên không ở nhà thường xuyên như ông Tư Xuân. Chuyện giáo dục, học hành của con là do ông Tư Xuân lo lắng. Nhưng bà cũng có cách dạy con và chứng tỏ cái quyền của mình. Chừng vài tháng một lần, một hôm nào đó, rãnh rang, bà kêu sáu đứa con nằm xếp hàng trên bộ ván gõ ở phòng khách, không đứa nào biết lý do, nguyên nhân, biết mình bị tội gì . Đứa út được tha vì nó còn nhỏ. Mấy đứa con mặt mày tái mét, từ đứa con gái lớn đã 15 tuổi, học lớp đệ tứ, đến thằng áp út mới học lớp ba, leo lên nằm trên bộ ván bóng loáng lên vân nâu đỏ ở phòng khách. Bà Tư Xuân nhịp nhịp cái roi dài 70 cm, bản rộng 3 cm, bắt đầu: - Hai! - Dạ! - Hôm qua con cho con Năng mượn xe đạp phải không ? - Dạ! Nó đi Phú Long xa . - Cho mượn xe bị mất một lần chưa tỡn sao? Chừng nào ba má nó qua mượn mới cho nghe không. Ba Má nó mượn, nếu nó có làm mất thì Ba Má nó đền. Dặn lần này là lần chót. Chép - Hồi sáng má nghe con nói hỗn với con Hai Cao, nó lớn hơn con bốn tuổi, má đã dặn là kêu nó bằng chị, mặc dù nó là người làm. - Dạ, bả lấy cái nón của con đi chợ. - Chị, chớ không bả với ổng gì hết . Nó không có thì cho nó mượn, không có hung dữ với người làm. Nó làm công chuyện nhà cho tụi con đi học thì phải thương nó. - Chiều bả . . . chỉ không tắm cho em Bé. - Thì chắc tại nó nhiều công chuyện, con tắm cho em cũng được vậy. Làm giúp chuyện nhà được cái gì thì làm. Con gái lớn rồi, trông ngó em cho má . Không được mắng mỏ người làm, người ta nghèo người ta mới đi làm cho mình. Má thấy nhiều lần chứ không phải một lần này đâu . Chép, chép, chép . Đứa con gái mím môi nhất định không khóc, đứng dậy, đi thẳng lên gác, nói một mình: "Nó làm có tiền chớ có làm không đâu, người ở mà đèo bồng" Bà Tư Xuân tiếp tục: - Ba! - Dạ! - Con đi theo mấy người mua dưa tút ở Căng phải không? - Dạ, con đi theo có một lần. - Trưa nắng, cát nóng, đường xa. Người ta mua dưa về bán, con theo chi vậy ? - Dạ, người ta cho ăn dưa, muốn ăn bao nhiêu thì ăn. - Một lần cũng là đi, thèm lắm hả? Mấy con không đứa nào được theo người ta lượm dưa. Người ta gánh nặng, đi mau, chạy theo sao kịp, đường xa, lạc đường, khổ lắm. Nghe chưa! Đánh lần này cho biết thân, cho nhớ. Chép - Tại sao không đi đòi tiền gạo nhà bác Bảy Lộc? - Dạ, bác không chịu trả. - Thì đi đòi lần nữa, bộ sợ người ta ăn thịt hả? Đi đòi tiền nợ mà sợ người ta như sợ cọp thì ai mà trả cho. - Con sợ bị mắng. - Kiếm chuyện. Thưa gởi đàng hoàng thì ai mắng. Làm biếng rồi kiếm chuyện hả. Má biểu làm chuyện gì thì làm cho trót nghe chưa. Không nên thân chuyện gì hết. Cả ngày đánh đu với con Hương, nó làm biếng học dốt, theo nó rũ rê hết đi chơi thì tụm năm tụm ba, không lo học lo hành. Không được chơi với nó nữa. Ngày mai đi nhà bác Bảy Lộc đòi lần nữa nghe chưa . Không có bác ở nhà thì ở đó chờ, lo về lẹ đặng đánh bè đánh bạn chứ gì. Chép, chép, chép. Con Ba lết lại góc bộ ván ngồi, khóc thút thít, than thầm: "Đám con trai của bác như quỉ da xanh, vừa dắt xe tới nhà, tụi nó ùa ra như chó lâu ngày không thấy xương, ai mà dám tới, ai mà dám ngồi đó chờ." - Tư! Con Tư đang nhe răng cười chọc thầm bà chị thứ Ba của mình: "Chị mà dám lại nhà đó, ông Thành khoái chị, dụ cho tui ổi hoài, tui biết hết. Còn ngồi đó chờ nữa, cho chị chết với đám con trai nhà bác luôn, cho hết ăn hiếp tui. Lần sau nhớ rủ tui đi, tui qué tụi nó cho. " Không biết mình bị tội gì, chưa kịp trả lời thì nghe tiếng má kêu bực tức: - Tư! - Dạ! - Chai dầu cá mới mua mấy ngày mà sao hết sạch? Làm đổ hả? Đổ đặng khỏi uống phải không? Tay chân quơ tới đâu là hư đổ tới đó . Hấp ta hấp tấp, làm cái gì cũng phải từ từ cẩn thận nghe chưa! Đánh cho nhớ! Chép - Còn vô nhà thương hái trứng cá phải không? Chỗ bịnh chỗ hoạn, trái cây dính toàn vi trùng mà cũng lén đi hái. Nói hoài không nghe . Đi học về thì phụ chị Hai Cao chuyện nhà, la cà vô nhà thương dơ dấy bẩn thiểu. Nói lần này là lần thứ mấy rồi? Lì lắm! Chép - Con vẽ hiệu cho mấy bao lúa chưa? - Dạ chưa. - Chưa? Vậy chớ mấy bữa nay làm cái gì? Đánh đu đánh bạn với đám con bà An Thịnh phải không? Tụi nó ăn cắp như quỉ, theo nó rồi học đòi ăn cắp, con gái mà cả ngày đánh bạn đánh bè với đám con trai. Chép - Còn nữa. Ở lại đêm trên ông ngoại phải không? Đã căn dặn lên chơi chiều về, không được ở lại. Mấy ổng lúc này đem mấy chuyện ca múa dụ con nít con trẻ theo. Ham ca ham múa lắm. Có ngày mấy ổng bắt vô rừng luôn, khổ ai cho biết. - Dạ, ông ngoại bị bịnh. - Ông ngoại bịnh để người lớn lo. Má dặn luôn mấy đứa, không đứa nào được ở lại đêm nhà nội nhà ngoại. Tình hình bây giờ nguy hiểm lắm, đêm có đụng trận rồi làm khổ ông ngoại bà nội. Nhất là chuyện mấy ổng dụ dổ theo vô rừng, tuyệt đối không nghe theo, không ở lại đêm nghe chưa! Chép, chép, chép. Con Tư lết lại gốc ván, ngồi bên chị Ba đã hết khóc vì mãi theo dõi tội tình của con em kế. Con Tư quên khóc, hồi hộp chờ má kể tội thằng em kế nhỏ hơn nó một tuổi nhưng học chung lớp. Nó với thằng Năm chơi thân như hai anh em, bắn bi, dích hình, đánh đáo, đánh trỏng... Thằng này nhiều tội lắm: Theo đám con bà An Thịnh ăn cắp một tán đường ở mấy hàng đường trên chợ Lớn, đem về chia cho con Tư một nửa. Đánh bài ăn gian thằng Danh bị má nó qua mắng vốn, may mà bữa đó không có ba má ở nhà. Xúi con Bảy thằng Tám đánh lộn, cho thằng Tám là Nga, con Bảy là Mỹ, làm như trận Đệ Tam Thế Chiến. Lấy gạo ở nhà cho nhà bà Năm ở xóm trong... - Năm! - Dạ! - Hồi trưa đi học đi ngõ đường rày phải không ? Má ngồi ở nhà máy gạo thấy con đi ngang qua. Đường toàn là mồ mả, trưa đứng bóng mà đi ngõ đó cho ông bà bắt, đã bị hành cho bịnh lên bịnh xuống mà cũng chưa tỡn. Chép, chép ,chép. Thằng Năm ngạc nhiên quá đỗi vì má chỉ kể có cái tội đó. Nó quên khóc, lại ngồi gần con Tư. Thấy cái mặt con Tư đang nhe răng cười, cái mặt dễ ghét, nó thúc tay vô bụng con chị một cái thiệt đau. Con Tư chưa kịp thúc lại thì nghe má kêu: - Bảy! - Hu . . hu . . hu . . dạ! - Chưa đánh mà khóc hả? - Con đâu có trốn học, con chơi ở nhà con Hằng, má nó biểu con ở lại chơi với nó, hu... hu... hu. - Vậy cái miệng để đâu? Thì thưa với bác là con phải đi về đi học. Con Hằng bịnh tật không đi học được, con thương nó, chơi với nó, má không cấm, nhưng con còn phải đi học. Không phải tội này. Hôm qua có tô chè để dành chiều đem lên cho ông ngoại, đứa nào ăn sạch, con phải không? - Dạ, con chia cho con Hằng nữa . - Có làm thì có chịu, không đổi thừa cho ai hết. Nó đâu có biểu con lấy ăn. Thức ăn để dành cho nội cho ngoại là phải để đó nghe chưa. Bà quay lại con Tư đang trừng mắt với thằng Năm, bà hỏi: - Tư! Tại sao biểu đem chè lên cho ngoại rồi để đó. Con Tư hết hồn, tưởng bị một roi nữa. May quá! Má quay qua tiếp tục kể tội con Bảy: - Cái tội ăn vụng, ăn hỗn. Biết là để dành cho ông ngoại mà dám cả gan ăn hết. Chép, chép, chép . Lần này chắc mõi tay hay tại bà thương đứa con gái thật thà chưa đánh đã khai, nên bà chỉ đánh nhè nhẹ. Con Bảy nằm lì đó, khóc ưng ức, làm như mình vô tội vậy. Bà Tư lại gọi: - Tám! Không có tiếng trả lời. - Tám! Thằng Tám nằm ngủ từ lúc nào. Thằng này cũng không thua gì thằng anh nó. Cứ vài ngày là đánh lộn với tụi con bà An Thịnh, con bà cô Hường, chạy về nhà. Cứ vài ngày là có người đến nhà mét vốn. Bà Tư Xuân chừng như đã mệt, không thiết đánh thức thằng Tám, thằng con áp út bà cưng chiều, nắng không cho đi học, mưa cho ở nhà sợ bịnh. Bà xoay ra mấy đứa lớn đã nín khóc tự lúc nào, biểu: - Đi rửa mặt rửa mày rồi ăn cơm. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vượt thời gian[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lưu Quang Minh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuối cùng, mụ quyết định trở về quá khứ. Mụ phải thay đổi số phận của mình. Nhìn mụ đi: một mụ phù thủy xấu xí thô kệch mà chính bản thân cũng chẳng khi nào dám trông vào trong gương. Mất bao nhiêu năm mụ nghiên cứu chế tạo ra Tình dược, chỉ để chờ đến giây phút này thôi. Mụ vung gậy, niệm thần chú rầm rì. Sấm sét nổ đì đùng. Mây đen vần vũ. Trời đất quay cuồng. Cánh cửa thời gian mau mau mở ra. Ranh giới giữa huyền bí và khoa học, cái chết và sự sống, nguyên nhân và kết quả… tất cả cùng tụ hội lại. “Ầm!” – Tia sét sáng lóa từ trên trời giáng thẳng xuống người mụ, xé toạc không gian, cắt vụn thời gian… Lễ tình nhân năm 2001 Mụ đã tìm ra mình của quá khứ. Ngay kia thôi. Cô thiếu nữ đáng thương khuôn mặt không ưa nhìn, thân hình không thon thả, chẳng bao giờ là “mục tiêu” để ý của những gã trai si tình. Từ mấy hôm nay cô một mình đi khắp lượt các cửa hàng để tìm chọn một hộp sô-cô-la đẹp nhất dành tặng người cô thương. Trong mắt cô, trong lòng cô, chàng là một bạch mã hoàng tử hoàn hảo nhất. Nụ cười của chàng như tỏa nắng, làm thổn thức đắm say biết bao nhiêu trái tim con gái. Cô chỉ là một trong vô số mà thôi. “Này, cô gái!” Vừa trông thấy mụ, cô giật mình hoảng hốt. Cũng đúng thôi, hình hài này của mụ quả là gớm ghiếc, ai trông thấy mà chẳng ghê sợ. Mụ tự biết. Không sao cả… “Cô có muốn người cô yêu cũng sẽ yêu cô không?” Mụ giật lấy hộp sô-cô-la hình trái tim trên tay cô gái. Cô sợ hãi, vội vã giằng lại. “Trả cho tôi.” “Yên nào. Ta biết đây là quà tặng người cô yêu. Hãy nghe lời ta bảo, trong Lễ tình nhân này, anh ta sẽ thuộc về cô.” Thật vậy sao? Lâu nay, cô chỉ dám ngắm nhìn anh từ xa, thật xa. Lấy hết can đảm, Lễ tình nhân này cô mới quyết định tặng anh một hộp sô-cô-la thể hiện tấm lòng mình. Dù rằng có thể anh sẽ chẳng màng bận tâm để ý. Vây quanh anh lúc nào cũng có thật nhiều cô gái xinh đẹp sẵn sàng trao tặng anh những hộp kẹo cầu kỳ kiểu cách đắt tiền hơn gấp trăm lần. “Chỉ cần nhỏ một vài giọt trong lọ này lên cái hộp. Khi anh ta cầm lấy nó, sẽ phải lòng cô ngay lập tức!” Mụ lấy trong tay áo lọ Tình dược bao nhiêu năm bỏ công bào chế. “Nào, để ta giúp cô…” Chàng kìa. Từ xa mụ đã nhận ra ngay. Đúng là chàng rồi. Người không phút nào mụ dừng yêu từ mười năm về trước cho đến tận hôm nay. Cũng chỉ vì chàng, mụ mới trở thành phù thủy, cố gắng có được pháp lực cao cường, trải qua vạn lần thất bại đến nỗi phải mang bộ dạng đáng sợ như bây giờ. Nỗi đau đớn ê chề khi bị chàng từ chối mụ vẫn nhớ như in. Chính vào cái ngày định mệnh này. Bất chấp tất cả, mụ thề phải có được trái tim của chàng. Mười năm trời để đổi lấy chàng, vẫn là giá hời. Con bé e dè mãi không dám lại gần. Đừng rụt rè nữa, mạnh dạn lên. Nhà ngươi sẽ không còn phải khóc như mưa giống ta đây nữa đâu. Để ta tiếp cho ngươi thêm chút tự tin. Nghĩ là làm, mụ chỉ tay về phía cô gái đang đứng một quãng xa so với chàng trai, miệng lẩm bẩm một câu thần chú. Ngay lập tức, phép màu xảy ra. “Anh ơi. Chờ em đã…” Chàng quay lại. Từ chỗ này, tim mụ đập nhanh như trống dồn. Đưa cho chàng đi, nhanh, nhanh lên nào. “Có chuyện gì vậy?” Vẫn là nụ cười tỏa ánh nắng ấy. “Em tặng anh...” Chàng liếc nhìn cô từ trên xuống dưới, đảo mắt qua lại vài lần. Mụ đã nhớ ra. Giây phút này, chàng sẽ thốt lên một câu.... Không, phải ngăn chàng lại! Miệng mụ rầm rì thêm lần nữa. Tức thì, chàng chộp lấy hộp kẹo từ tay cô gái. Một cơn cuồng phong dữ dội bỗng dưng từ đâu kéo đến. “Chuyện gì thế này?” – Mụ hét lên. Cơn lốc cuốn tung mụ lên trời. Loáng thoáng, mụ thấy vài hình ảnh nhợt nhòe lướt nhanh qua đầu mình. Thôi mụ hiểu rồi. Dòng chảy định mệnh của mụ đã rẽ sang hướng khác… Không gian chỉ còn lại một màu tối đen như mực. Đây là đâu? Ta đang ở đâu? “Mụ đến rồi đấy à?” - Một giọng nói quen thuộc vang lên văng vẳng. “Ai đó?” “Ta đã chờ mụ từ lâu lắm, suốt hai mươi năm trời. Cuối cùng mụ cũng đến…” “Nhà ngươi là ai? Trả lời ta mau!” Mụ vung gậy. Ánh lửa liền bùng lên, soi rõ mọi vật. Trước mặt mụ là một người đàn bà trung niên áng chừng mới qua tuổi bốn mươi. Ngọn lửa bập bùng, cháy sáng hơn. Trời ơi, gương mặt này… Người đứng đối diện giống mụ như in hệt. Mụ chỉ trẻ hơn bà ta thôi… “Mụ nhận ra rồi sao? Ta chính là mụ của mười năm tiếp theo…” Vậy có nghĩa… mụ đang ở tương lai? Sao mụ lại đến được đây, lòng mụ trào lên cơn thắc mắc. “Ta biết mụ sẽ mở cánh cửa thời gian ra một lần nữa, nên ngày nào ta cũng chờ mụ.” “Có chuyện gì vậy? Ta đã thay đổi quá khứ của chúng ta rồi. Chàng đâu? Người ta yêu đâu?” Người đàn bà khắc khổ già nua khẽ nở một nụ cười buồn bã. “Gã đi rồi…” “Đi đâu? Hai mươi năm qua đã xảy ra chuyện gì, nói ta nghe!” “Được, mụ nhìn đây.” Từ khoảng không trước mặt cả hai xuất hiện nhiều hình ảnh trôi lững lờ như những thước phim quay chậm. Mụ lặng yên quan sát. Kìa, mụ và chàng. Đúng là chàng đã ngấm phải Tình dược. Chàng yêu mụ rồi. Trông hai người thật hạnh phúc, dù chẳng mấy đẹp đôi. Khung hình chuyển sang một cảnh khác. Đó là đám cưới của mụ. Không được rạng rỡ như nhiều cô dâu khác trong ngày cưới, mụ vẫn tỏ ra vô cùng mãn nguyện. Chàng đang lồng vào ngón tay mụ chiếc nhẫn cùng lời thề nguyền yêu thương trọn đời. Giấc mơ của mụ cuối cùng cũng đã thành hiện thực. Thật tuyệt vời! Rồi mụ và chàng sẽ sinh con đẻ cái, những đứa bé có thể không đẹp như thiên thần nhưng là kết tinh bởi tất cả tình yêu của mụ với chàng. Mụ sẽ chăm lo cho gia đình nhỏ của mình vẹn toàn, mãi mãi. Hạnh phúc là có thật. “Ta từng nghĩ như mụ, nhưng rất tiếc…” Cảnh trí khác lại bày ra trước mắt. Đó là chiếc hộp sô-cô-la hình trái tim. “Chuyện gì vậy?” “Gã đã tìm thấy nó khi lục lọi những thứ cũ kỹ trong kho…” Chàng cầm nó trên tay, trong một giây lơ đễnh, chiếc hộp bị đánh rơi xuống đất. Nắp hộp bật ra, những viên sô-cô-la tình yêu văng tung tóe khắp nơi. Đột nhiên, chàng ôm đầu, thảng thốt. Vì lý do nào đó, Tình dược dần mất tác dụng. Bùa phép bị hóa giải. “Mụ đã hiểu chưa?” Cả người mụ run lên. Sao lại như thế được. Phép thuật của mụ có thể bị hóa giải ư? “Nếu đã vậy. Ta sẽ trở về thời điểm ấy và cho chàng một liều Tình dược khác, mạnh hơn!” “Vô ích thôi. Gã vốn không phải một người đàn ông tốt. Gã là một kẻ trăng hoa…” Những tháng ngày sau đó ào ạt hiện ra. “Chàng có người đàn bà khác…. Không! Không thể như thế được! Không thể nào…” “Gã bỏ chúng ta rồi…” Hai chân mụ khuỵu hẳn xuống nền đất lạnh. Mụ từng nghĩ chàng là người đàn ông hoàn mỹ nhất trên đời này. Chỉ cần có được chàng, mụ sẵn sàng hi sinh tất cả. “Tình yêu của chúng ta thật mù quáng. Nhưng trong suốt ngần ấy năm ta đã hiểu rằng, dù sao tình yêu của chàng cũng không phải là thật, chỉ là sự ngụy tạo của tà thuật mà thôi…” Tà thuật? Phải rồi. Mụ luôn đọc được lời cảnh báo trong vô số cuốn sách cổ. Sự rù quến dẫu tác dụng cách mấy vẫn chẳng thể mang lại một con tim chân thật. Những kẻ dùng thủ đoạn để đoạt được tình yêu sẽ không bao giờ tìm được hạnh phúc mãi mãi. Đó là một lời nguyền. Không! Không đúng! “Ta phải làm gì đây? Nói cho ta biết đi, tương lai của ta! Nói đi, rồi ta sẽ vượt thời gian, sẽ về quá khứ, sẽ lại thay đổi định mệnh của mình. Nói đi!” “Mụ lầm rồi!” “Ta không lầm. Phép thuật của ta rất cao cường. Dù phải thay đổi quá khứ bao nhiêu lần, ta cũng sẽ làm.” “Mụ lầm to rồi!” “Câm ngay. Cút mau. Ta không cần cái tương lai này. Ta sẽ cho ngươi biến đi. Khuất mắt!” Giông bão nổi lên lần nữa. Mụ vung gậy, hô hoán thần chú. Gần như mụ đã phát điên. Cơn giông cuốn mụ bay mất tích. Người ta ghi nhận cánh cửa thời gian đã bị mở ra lần nữa vào Lễ tình nhân năm 2021. Lễ tình nhân năm 2011 Mụ đàn bà điên một mình bước đi trên phố. Vừa đi mụ vừa cười man dại. Gặp ai mụ cũng xưng mình là một phù thủy có tài hô phong hoán vũ. Ngang qua một cửa hàng sô-cô-la, mụ đứng bần thần, lầm bầm rồi phá lên cười: “Tình dược! Tình dược! Ha ha ha! Ha ha ha!” Chẳng ai biết mụ từ đâu tới. Quá khứ mụ ra làm sao. Tương lai mụ sẽ thế nào. Cũng có một số ít người thở dài ái ngại, lòng thương cảm. Trong ngày đặc biệt này, vẫn không thiếu những linh hồn đơn chiếc như mụ. Trên đời, đâu ai muốn mình mang gánh một số phận không may. Mụ bước đi, đi mãi, ngang qua vô số cặp tình nhân đang ấm áp yêu thương. Mụ vẫn đang tìm nó. Cuối cùng, mụ cũng nhớ loáng thoáng nó có hình dáng trái tim, bên trong chứa những viên sô-cô-la ngọt ngào... [/FONT]