Ý nghĩa quá ^^!Chưa vợ mong con khóc nhưng đọc mấy bài này thấy mình cần yêu thương và đặt gia đình lên hàng đầu, tổ ấm lắm lắm cơ mà.
Trái tim ơi, ta bình yên nhé! Đã có lúc em muốn nghiền nát trái tim em, để chắt lọc ra từ đó những giọt nước mắt đau khổ của mình, rồi chưng cất lại cho vẹn nguyên, tinh khiết, trong veo như ngày nào. Để cho lòng mình không còn những vấn vương, đa mang và u sầu. Cũng đã có những lúc trong cơn đau tột cùng, em muốn vò nát trái tim anh, nhào trộn vào đó những mảnh vỡ khổ đau từ tâm hồn em, để anh cảm nhận được nỗi đau đang cứa nát trái tim em. Nhưng vì em yêu anh nên em đã không thể, chính vì thế em đã ru trái tim mình ngoan nhé - hãy ngủ yên, hãy bỏ hết đi những giận hờn, trách móc... Bởi em biết trong mỗi con người đều chất chứa những nồng nàn một cõi riêng tư. Vẫn biết rằng: mọi việc đều có hạn định đó thôi, những bước đi ngược đường rồi cũng sẽ có ngày phải dừng chân tìm chốn nghỉ, và em hiểu đã đến lúc em phải dừng chân, để nhìn lại những tháng ngày chúng mình đã đi qua, để cảm nhận lại vị ngọt nhạt, nồng nàn, hạnh phúc và có cả cay đắng, bẽ bàng anh dành cho em. Để rồi em thi vị lòng người và từ đó em có thể nhìn đời, nhìn người bằng con mắt bao dung, vị tha cần có. Ai đó đã nói rằng lòng tham của con người là vô hạn, em cũng là con người và anh cũng vậy, đều tham lam muốn giữ trọn mọi cái cho riêng mình. Nhưng em hiểu rằng chúng mình không thể, dù biết rằng trong trái tim em còn đập nhiều lắm những nhịp yêu thương, những mong muốn bù đắp cho ai kia tất cả bằng tình yêu nồng nàn, dâng hiến, vị tha và không còn là sống cho riêng mình… Chỉ tiếc rằng em chưa kịp hoàn thiện mình trong trái tim, trong tâm hồn và trong suy nghĩ của anh, thì em đã tự mình phải buông tay anh ra để đi về phía không anh. Có thể con đường mà em chọn ngày mai, sẽ là khổ đau hoặc ngập tràn hạnh phúc… Nhưng em sẽ ru lòng mình bình yên, sống thật thánh thiện để chuộc lại những tháng ngày tham lam, tội lỗi với người cho tới khi trở về với cát bụi, về với cõi hư không, vô thường trong một ngày xa kia. Em cám ơn anh đã cho em còn biết khóc, biết cười, biết khổ đau, biết yêu thương và giận hờn vô cớ - những cảm xúc mà em tưởng như đã không còn sau những mất mát của riêng mình. Cám ơn anh đã cho em hiểu những giọt nước mắt yêu thương níu với bờ mi ngày nào rồi cũng sẽ cạn khô, những giọt tình sầu đến một ngày cũng sẽ trở thành thứ rêu phong ẩm mốc và chết đi theo ngày tháng phôi pha. Em tin rằng sau những nỗi đau, cuộc sống sẽ lại hồi sinh và em sẽ cười thật to để thứ tha cho tất cả... Rồi ngày mai tiếng nấc sẽ không còn và trái đất tròn ta lại gặp nhau, trao nhau những nụ cười không gượng gạo, cho dù nụ cười đó có thể là do những giọt nước mắt khổ đau ngày hôm nay của em được kết tinh lại.
SẼ VẪN YÊU !DÙ ĐÔI LẦN CAY ĐẮNG &&&&& Vi quay về con đường của mình mà không có bóng hình Khánh trong trái tim. Vi thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản và ấm nóng. Bí mật - Mình không biết đó có phải là tình yêu hay không nữa. Có lẽ mình nhầm! - Vi nghẹn ngào, dường như nó đang phủ nhận tình cảm, hay ít ra là che đậy những gì đang diễn ra trong nó. Vi cố ngăn dòng nước mắt đang trực trào ra. Nó thấy xấu hổ. - Nghe này Vi, mình biết Vi đang tự lừa dối chính mình, mà Vi biết đó là điều không thể. – Hoài, người bạn thân nhất của Vi cũng là một trong tam quái chơi với nhau từ hồi còn để chỏm, nói. - Mình biết, nhưng mình không thể tưởng tượng được cuộc sống của mình sẽ biến động như thế nào và tình bạn của chúng mình sẽ ra sao nếu mình nói ra điều ấy. Mình tin là Hoài cũng không muốn nó đi theo chiều hướng xấu. Vậy thì Hoài đừng nói gì vội nhé, hãy để cho mình có thể chuẩn bị cho việc này, được chứ? Hoài im lặng có thể hiểu là đồng ý. Hoài quay mặt đi không nói gì, để lại Vi miên man với những cảm xúc có đôi phần không tốt (theo Vi là thế) và cả sự lừa dối chính bản thân mình. Hoài muốn nói một điều gì đó để an ủi Vi, nhưng Hoài sợ, sợ câu nói của mình sẽ xé toạc 10 năm là bạn giữa Khánh và Vi. Hoài đành im lặng. Một sự im lặng mà Hoài không hề muốn. Hoài, Khánh và Vi là tam quái chơi với nhau khá lâu. 10 năm có thể không phải là một thời gian quá dài nhưng cũng không hề ngắn ngủi trong cuộc đời mỗi con người. Vậy mà cho đến hôm nay Hoài mới biết người mà Vi thầm yêu là Khánh, cho dù cả Hoài và Vi đều biết, Khánh đã có bạn gái. Vi ngồi lặng đi trong phòng, nước mắt chỉ trực trào ra, nhưng nó không dám khóc. Dường như Vi sợ nước mắt sẽ xóa nhòa và làm vỡ vụn thứ tình cảm mà nó tạm gọi, tạm cắt nghĩa là tình yêu. Trong đó có cả những dư vị ngọt ngào xen lẫn đắng cay. Vi có thể hiểu rằng 10 năm tình bạn không thể làm nên một tình yêu. Dẫu biết đoạn cuối của một cuốn sách là bi kịch nhưng Vi vẫn cố đọc từng trang chỉ để thấy trái tim mình rớm máu. Vi cười vì thấy nó đẹp như một giấc mơ, Vi dám sống, dám yêu thương dù biết mình đau đớn. Phải rồi, nó đẹp như giấc mơ của đời Vi, đẹp đấy, nhưng sẽ tan khi Vi tỉnh. Sự thật trong buổi chiều đông Tan học. Trời đông lạnh như thấm vào từng thớ thịt. Trời âm u, đen xì xì, lụp xụp. Cơn gió bấc thổi hù hù va chạm vào mặt người như một cái tát chẳng hề êm ái. Một buổi chiều đông không đẹp, không đẹp như chính giấc mơ của Vi – tối om và bế tắc. Khánh rời lớp học và nhận ra cánh tay vẫy vẫy của Hoài. - Khánh ơi Hoài nè, đi uống nước nhé! - Hoài rảnh à? Ừ thì đi, mà Vi đâu sao không rủ đi cùng? – Khánh nói. - Hoài có chuyện muốn nói với riêng Khánh thôi, nên không rủ Vi, đi thôi. Khánh cười, khiến hơi ấm lan tỏa ra trong không gian, xua đi phần nào cái giá lạnh vây quanh. Một phòng trà nhỏ nằm kế bên hồ, nơi mà cả nhóm vẫn thường tập trung. Hoài và Khánh cùng đến đó, chỉ khác là lần này không có Vi. - Khánh biết sao Hoài gọi mình Khánh ra đây không? - Chịu, Hoài cứ làm như Khánh là thầy bói không bằng. - Ừ, cũng phải, Hoài và Vi cùng là con gái, lại chơi thân với nhau thế mà Hoài còn không biết cái bí mật của Vi thì làm sao một tên con trai vô tâm như Khánh hiểu được. - Sao thế, Vi có bí mật gì trầm trọng lắm à? Mà sao chưa gì đã trách tôi vô tâm thế hả, mời người ta đi uống nước để chê bai đó hả? - Thực ra đó là một điều bình thường nhưng nó là một phần thế giới tâm hồn của Vi. Điều đó sẽ chẳng bao giờ là trầm trọng nếu như Khánh đón nhận nó theo một chiều hướng tích cực. - Sao lại là mình? - Khánh à, Khánh có biết người mà Vi thầm yêu bao lâu nay là Khánh không? - Hoài khéo đùa thật đấy. Khánh cất tiếng cười lớn như thể đó là một khám phá lí thú nhưng không có thật của Hoài. - Khánh nghĩ Hoài có thể mang danh dự của Vi ra mà đùa được ư? Hoài biết điều đó khá bất ngờ nhưng nó là sự thật, nhưng vì tình bạn của chúng ta bao năm qua, mình nghĩ chúng ta nên đối mặt với nó. - Không thể thế được, chúng mình đã làm bạn với nhau bao nhiêu năm qua điều đó nếu có thì mình phải biết chứ. Vả lại mình cũng đã có bạn gái, Vi thừa biết điều đó mà, thậm chí những lúc mình và người yêu giận nhau người giúp bọn mình làm lành cũng chính là Vi. Mình không tin đó là sự thật đâu. - Hoài còn không muốn đó là sự thật hơn Khánh ấy chứ, vì mình không muốn Vi khổ, nhưng tiếc là không phải vậy. Chúng mình vẫn biết Vi là đứa tốt như thế mà, tốt đến mức lạ thường. Hoài nói, nhìn và nắm lấy tay Khánh như để làm cho Khánh cảm thấy đó không phải là điều gì quá ư lớn lao. - Thực ra Khánh không phải thay đổi gì cả, chỉ cần Khánh hiểu điều đó, vậy thôi, biết được tình cảm của Vi, thế là đủ. Và chúng mình sẽ vẫn mãi là những người bạn tốt, đó mới là điều không bao giờ thay đổi. Nhưng sau chuyện này chúng mình cần xem lại bản thân, chúng mình đã có đôi phần thờ ơ với suy nghĩ, tình cảm của Vi. Khánh gật đầu, một cái gật đầu vô thức, sau đó lặng đi. Câu nói của Hoài khiến Khánh có gì nghẹn nơi cổ họng. 10 năm qua Khánh vẫn vô tình với Vi dù lúc nào Khánh cũng khoác lên mình cái mác là “bạn thân” của Vi. Khánh mơ hồ không hiểu chuyện gì đã xảy ra, ý chí, tình cảm của Khánh sụp đổ như buổi chiều đông hôm nay. Tình bạn, tình yêu và nước mắt - Vi ơi, bọn mình đi dạo nhé! – Hoài gọi khi thấy Vi đang bước dần ra phía cổng. - Ừ đi, Vi cũng đang buồn đây. - Vi này, Hoài xin lỗi mình đã nói chuyện đó cho Khánh biết rồi. - Mình biết! - Sao Vi biết? Khánh nói gì với Vi à? - Không, nhìn Khánh là mình biết, mình và Khánh đã có một bức tường vô hình, ai cũng nhìn thấy nhưng không ai dám đập nó đi vì sẽ làm người kia bị thương. - Vậy à? Có lẽ chúng mình cần cho Khánh thời gian để Khánh trấn tĩnh lại và có cho mình sự lựa chọn cũng như quyết định chính xác. - Chẳng có sự lựa chọn nào đâu, vẫn vậy thôi, Vi biết mà. – Nói rồi Vi đưa mắt mơ màng nhìn ra bốn phía nhưng thực chất là để Hoài không nhìn thấy hai hàng nước mắt đang lăn dài trên má. Vi không muốn mình yếu đuối trong mắt Hoài, Vi sợ Hoài thương Vi, một sự thương hại làm Vi buồn. - Thôi Hoài về trước đi, Vi muốn đi dạo một mình. - Ừ, Hoài hiểu, Hoài về trước nhé, có gì Vi điện thoại cho Hoài nha. Giờ thì thế đấy, Vi chỉ còn lại một mình, có lẽ thế lại hay. Vi sẽ có cơ hội được hiểu mình hơn hay chí ít là Vi không phải che giấu bất cứ cảm xúc gì đang diễn ra trong mình. Vi bỗng nhận ra hôm nay trời có nắng, dù chỉ là cái nắng nhợt nhạt thiếu sức sống của buổi chiều đông. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ làm cho Vi bừng lên hơi ấm lạ thường. Vi không còn cảm thấy cô đơn dù cho nỗi lo vẫn thường trực vài lần làm se thắt tim Vi mỗi khi nghĩ đến. Thực ra, điều mà Vi sợ không phải là Khánh không đáp lại tình cảm của Vi, mà đó là liệu tình cảm của ba đứa sẽ đi về đâu sau biến cố này. Nếu đó là một kết thúc không đẹp thì Vi thấy rằng Vi đã mất quá nhiều, đã phải trả giá khá đắt cho thứ tình cảm mơ hồ ấy. Chưa bao giờ Vi sợ mất tình bạn như lúc này. Dẫu sao Vi cũng cần gặp Khánh một lần để nói rõ mọi chuyện. Nhất định là như thế. Đoạn cuối con đường Tối. Phố xá lẫn trong màn sương dày đặc, mịt mùng, nhập nhoạng dưới ánh đèn cao áp. Tối mùa đông nên con đường vắng hoe có cảm giác làm cho cái lạnh được dịp lan tỏa, không chỉ làm lạnh da thịt mà tâm hồn cũng vì thế mà đóng băng. Khánh và Vi gặp nhau, chỉ có điều đó không phải là một cuộc gặp gỡ của hai người bạn thân, càng không phải cuộc hẹn hò của một đôi trai gái mà là đáp án cho một câu hỏi còn bỏ ngỏ, là câu trả lời cho một mối tình đơn phương. Lạ quá, vẫn con đường mọi khi đi dạo mà sao hôm nay dài vậy? Có lẽ chỉ hai vòng xe là làm tròn vai trò của nó, chúng cứ lăn mãi, lăn mãi… Vi và Khánh tưởng chừng như lạc trong con phố dài. Cả hai không nói gì, cái lạnh đến ghê người. Có lẽ cả hai cũng đợi người kia nói trước, hoặc cả hai cùng sợ bất cứ âm thanh nào cũng có thể trở thành điều phá vỡ mọi thứ, hay cũng có thể rằng trong họ có quá nhiều điều để nói mà không biết bắt đầu từ đâu. Có thể lắm chứ. Một cuộc gặp mặt trong im lặng, không câu hỏi cũng chẳng có câu trả lời (ít nhất là cho đến lúc này). Nhưng dường như con đường chẳng hiểu lòng người, đoạn cuối con đường đã đến. Trước mặt Vi và Khánh là hai lối rẽ. Không hiểu con đường ấy vô tình hay cố ý mà nó như cắt lòng Vi ra làm đôi. Khánh hiểu đến đây Khánh không thể im lặng được nữa. Khánh nắm lấy tay Vi khẽ nói: - Vi, mình xin lỗi… - Đừng nói gì cả, mình hiểu hết. Trong chuyện này không ai có lỗi hết. Cả mình và Khánh đều không. Vài giây thinh lặng để Vi hiểu mình vừa nói gì, để Khánh hiểu mình vừa nghĩ gì. - Chúng mình vẫn là bạn chứ? - Vi nói giọng run run. Khánh cốc mạnh vào đầu Vi một cái. - Đồ ngốc, thế mà cũng phải hỏi, đó là điều không bao giờ thay đổi hiểu không? Nào, để Khánh đưa Vi về. - Không hãy để mình tự đi, mình thích thế. - Vậy được không? Để Khánh đưa Vi về mà. – Khánh nói và nhìn Vi đầy lo lắng. - Thôi hãy làm theo ý Vi được không? - Thôi được, Vi đi cẩn thận nhé, về ngủ một giấc thật ngon, sáng mai tỉnh dậy Vi sẽ thấy đó chỉ là giấc mơ mà thôi. Nói xong Khánh rẽ qua một bên con đường. Có thể đó là lối rẽ của cả Vi và Khánh. Vi đứng lại nhìn theo bóng Khánh. Bỗng Vi thấy sống mũi cay cay và nơi đầu lưỡi chát mặn. Bóng Khánh mờ dần lẫn vào màn sương dày đặc quánh, khuất dần, khuất dẫn rồi biến mất. Vi quay về con đường của mình mà không có bóng hình Khánh trong trái tim. Vi thấy lòng mình nhẹ nhàng, thanh thản và ấm nóng. Hơi ấm không phải tỏa ra bằng thứ tình yêu đôi lứa mà được sưởi ấm bằng một tình bạn thiêng liêng. Và Vi biết Vi sẽ vẫn yêu cuộc đời này, dù đôi lần cay đắng. s.t
Luôn sẵn sàng tặng cậu một cái ôm! Đừng ngại để người bạn yêu tựa vào vai bạn. Đừng ngại xuất hiện khi người yêu bạn đang cần. Đừng ngại trở thành điểm tựa. Và đừng ngại ngần làm tất cả cho người mình yêu Tôi qua nhà đón Hân. Bao giờ cũng vậy, nó bắt tôi làm tài xế miễn phí mỗi dịp họp lớp, tụ tập hay thậm chí là hẹn hò. Đã vậy, mỗi khi ngồi sau xe nó đều hỏi tôi một câu sến của sến: “Nguyên, tớ ôm cậu được không?” khiến ai cũng nghĩ tôi và nó có “gì gì” đó với nhau. Cho nên mỗi lần bất đắc dĩ phải qua đón nó, tôi đều gắt ầm lên cứ như Hân là kẻ thù từ kiếp nào. Hân có thêm một tật nữa là rất hậu đậu. Đi đâu nó cũng phải chải chuốt cả tiếng, để rồi cuối cùng nó vẫn áo phông, quần jean, tóc ngắn buộc lại bằng một sợi dây chun. Có thế thôi mà lúc nào cũng để tôi chờ. -Mời tiểu thư lên xe. Muộn cả tiếng rồi đấy cô ạ! -Khiếp, làm gì trù tớ ghê thế! Tớ vẫn xinh đẹp thế này cơ mà! – Hân vừa cười vừa lên xe, không quên véo tôi một cái – Nguyên này, tớ… -Stop! Cậu mà nói câu đó nữa tớ sẽ ném cậu ở đây ngay lập tức! – Tôi gào lên đồng thời quay lại đe dọa. Hân lườm tôi. -Con trai gì mà điêu. Lại còn ki - bo. Ôm một cái thôi mà! -Đã bảo không là không. Đừng bắt tớ điên theo cậu chứ! -Bình thường thôi, cậu hiểu tớ mà. Nhỉ? -Không! – Tôi lè lưỡi – Chẳng qua là vì nghĩa vụ thôi nhá! -Nghĩa vụ gì? -Nghĩa vụ đón cậu. Nếu không thì… -Thì cậu đã “cắt băng” tớ từ lâu rồi phải không? – Hân giận dỗi. Tôi bật cười, đúng là trẻ con. Không biết bao giờ Hân mới lớn được. -Ai bảo thế, tớ luôn tự nguyện đón cậu mà! Hân mỉm cười. -Có thế chứ! Bạn tốt nhở! Cả lớp chỉ chờ mỗi tôi và Hân để xuất phát. Ai cũng la oai oái khi thấy cái mặt tôi đạp xe hùng hục tới. Chưa kịp để tôi giải thích, cả bọn đã nhận chìm tôi trong cơn mưa nước… bọt. Tôi nhìn Hân, sao nó lại có thể yên bình “tám” với lũ vịt giời như thế chứ? Đời thật phũ phàng, cái gì cũng đổ lên đầu mình cả. Hix. Chúng tôi cắm trại dưới chân núi. Lâu lắm rồi lớp mới họp mặt nên có rất nhiều chuyện để nói với nhau. Chúng tôi cùng leo núi, hái sim và hát. Lớp tôi ai cũng thay đổi. Mỗi người theo một cách riêng. Bất ngờ nhất là có những cặp đôi. Như Hoàng với Ngân, ngày xưa bọn nó ghét nhau ghê lắm, cứ hễ đụng mặt là bốp chát. Vậy mà bây giờ đã chính thức công khai tình cảm. Rồi Hùng và Mai Anh, cứ hễ giận nhau là hội bà tám lại xoắn xuýt cả lên. Hằng và Tuân. Kiên và Trang nữa chứ. Buối họp lớp cũng còn hợp duyên cho mấy đứa “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Đúng là tất cả đã thay đổi. -Chỉ có Hân là vẫn vậy nhỉ? – Lớp trưởng “bà chằn” cầm cốc nước ngồi lại cạnh tôi. -Hả? – Tôi giật mình vì mải nhìn mấy bông lau trên vách núi. -Thì Hân đó… - Vân chỉ tay về phía Hân đang vui vẻ hái thêm hoa trà. -Ừ! Con nhỏ đó lúc nào chả thế! Lãng mạn. Trẻ con. -Nguyên không thấy gì à? -Thấy gì là thấy gì? -Hân có đặc biệt với cậu đó! -Thôi tớ xin, đừng đoán mò nữa. Ai mà thích nổi nó. -Nhưng… cậu không thấy là chính cậu cũng luôn quan tâm Hân à? -Vớ vẩn quá! Tớ đi lên đây một chút! Tôi đứng dậy, bước lên mấy hòn đá cheo leo trên vách núi. Tôi muốn hái mấy bông lau cho Hân. Chắc nó sẽ vui đến nỗi hét toáng cho mà xem. Chợt tôi nhớ đến câu nói của Vân. Phải rồi, luôn luôn là thế, như một điều hiển nhiên, tôi biết từng sở thích nho nhỏ của Hân và luôn cố gắng làm cho nó vui. Nói cách khác là tôi thật sự quan tâm Hân. Hay đúng là tôi thích nó rồi nhỉ? Một lần nữa, tôi tự nói với mình: “Vớ vẩn quá! Mình và nó là bạn, có gì lạ đâu!” Cầm mấy bông lau trên tay, tôi định đi xuống thì thấy Hân leo lên. -Đừng lên nữa, tớ xuống bây giờ! -Ở đó đi, tớ muốn lên! – Hân bướng bỉnh. Vừa thở phì phò, Hân vừa chỉ cho tôi thấy Ngân và Hoàng đang chụp hình với nhau. -Lớp mình vui quá! Không ngờ bọn nó ghét nhau thế mà giờ lại thích nhau. -Thương nhau lắm cắn nhau đau mà! -Xem ra tớ với cậu cô đơn rồi. Hay mình cũng làm một đôi nhỉ? -Ừ! – Tôi đùa, đưa bó lau trắng cho Hân. -Tớ ôm cậu được không? – Hân mỉm cười ẩn ý. -Không! Nhưng câu nói của tôi vẫn không nhanh bằng hành động của Hân, vì ngay lập tức nó đã nắm lấy tay tôi. Khoảnh khắc đó bị lũ quỷ lớp tôi chụp được. Chúng nhìn tôi và Hân, vỗ tay rầm rầm. Tôi rút tay ra khỏi tay Hân. Không hiểu sao tự nhiên giận cô bạn mình ghê gớm. -Hóa ra hai ông bà này… giấu kĩ thế! Tôi bước qua Kiên, không nói gì. -Xem này, tình cảm ghê chưa! – Kiên giơ ra trước mặt tôi bức ảnh vừa chụp được. -Cậu im đi! – Tôi gằn giọng. Cả lớp bất ngờ trước thái độ của tôi. Chúng nó đều im lặng nhìn tôi bước xuống. Còn Hân, hình như Hân có khóc. Tôi ngồi yên trong phòng, nghĩ mãi vẫn không thể nào hiểu được phản ứng của mình. Tại sao tôi lại nổi nóng khi bị bắt gặp nắm tay Hân? Tôi chỉ biết lúc đó tim tôi đập nhanh và mặt thì nóng ran, rồi không làm chủ được hành động. Lúc về, Hân không ngồi xe tôi. Vân đưa Hân về nhà trước. Tôi cùng đường nên cũng dừng lại chào Hân. Nó không nói gì, còn tôi thờ ơ ngó qua chỗ khác, chỉ thoáng thấy mắt Hân đỏ hoe. Vân hỏi tôi: -Cậu làm sao thế? -Chẳng sao cả! – Tôi đáp gọn rồi vù thẳng về nhà. Cơn gió chiều làm tôi dịu đi. Nhưng không làm tôi quên được những chuyện đã xảy ra. Tôi làm sao thế nhỉ? Mẹ gõ cửa phòng, đưa điện thoại cho tôi. -Hân gọi con đấy! Tôi lạnh lùng tắt máy. Mẹ ngạc nhiên ngồi xuống cạnh tôi. -Hai đứa có chuyện gì à? Tôi đã kể chuyện của tôi cho mẹ nghe. Mẹ vốn biết rõ tình bạn của tôi và Hân, cũng là người hiểu tôi nhất. Trong lúc này, chắc chỉ có mẹ mới giải mã được cảm xúc của tôi. Nghe xong, mẹ chỉ cười, nụ cười đầy ẩn ý giống Hân. -Thực ra con đang sợ đúng không? Con sợ đánh mất tình bạn, nhưng đồng thời cũng có tình cảm đặc biệt với Hân. Phản ứng của con rất bình thường. Nhưng đừng cố giấu cảm xúc của mình, tốt nhất con cứ hành động như con muốn, chàng trai của mẹ ạ! Tôi chẳng biết mình nên làm gì. Mọi điều mẹ nói đều trúng “tim đen” của tôi. Đúng là tôi sợ mất Hân. Nhìn nhấy Hân buồn tôi chỉ muốn ôm cô bạn thật chặt, để cho Hân mượn vai mà khóc. Vậy mà giờ, chính tôi lại đang làm Hân khóc. Tôi thấy mình thật tệ. Song, đôi khi người ta nhận thấy cái sai là một chuyện, còn sửa sai lại là chuyện khác. Cả tuần tôi không nói chuyện với Hân. Hay đúng hơn chỉ có ba ngày tôi cố tình tránh mặt Hân, bốn ngày còn lại Hân không đến lớp. Đến đây tôi mới biết là tôi cần làm một cái gì đó. Chiều chủ nhật, Vân qua nhà tôi, đưa tôi mấy tấm ảnh hôm nọ. Lật qua một lượt, tôi chợt dừng lại ở tấm ảnh Hân nắm tay tôi. Trong ảnh, cô bạn cười rất tươi. -Đẹp đấy chứ? -Ừ! -Thực ra Hân nói cho tớ biết rồi. Nó thích cậu thật đấy. Nhưng nó vẫn không dám nói. Hôm đó thấy phản ứng của cậu như vậy, nó bảo sẽ cố quên cậu. Nguyên ạ, Hân làm gì cũng chỉ mong cậu được vui vẻ thôi. -Nhưng… tớ cũng… thích Hân mà! Mặt lớp trưởng rạng rỡ hẳn lên. -Sao lại nói với tớ? Đi mà nói với nó đi chứ. Mấy ngày nay Hân ở trong bệnh viện ấy, bé Nhi (em gái Hân) bị sốt. Tôi lấy xe phóng như bay tới bệnh viện. Dù lo lắng nhưng cũng thấy nhẹ lòng. Cuối cùng, tôi đã biết mình nên làm gì rồi. Nhất định cô bạn ngốc phải biết điều này mới được. Hân ngồi bên giường bé Nhi, gương mặt mệt mỏi. Trông cô bạn nhỏ bé và yếu đuối. Lần đầu tiên tôi bắt gặp một Hân không hề mạnh mẽ như tôi vẫn tưởng. Nhẹ nhàng đặt tay lên vai Hân, tự nhiên mọi lời muốn nói bay đi đâu hết, tôi nghe lòng mình lắng xuống. -Hân sợ lắm, bé Nhi cứ sốt mãi thế này, Hân chẳng biết làm sao! – Nước mắt Hân chảy dài. -Đừng lo, bác sĩ sẽ có cách chữa mà. Mùa này sốt cúm là chuyện bình thường. Tôi cố gắng an ủi, khẽ gạt nước mắt cho Hân. Cô bạn có vẻ dịu đi. Lần đầu tiên tôi thấy mình dịu dàng với Hân đến thế. Vừa lúc ấy, mẹ Hân bước vào. -Con về đi, mẹ ở đây được rồi. Cháu đưa Hân về giúp bác. Cứ thế này không khéo cả hai chị em đều ốm mất thôi. *** -Nguyên này! -Nếu cậu mệt thì cứ ôm tớ đi! -Cậu có ngại không? -Chẳng sao đâu! Vì… Tôi dừng xe lại, phát hiện ra Hân đã tựa vào lưng tôi ngủ từ lúc nào. Tôi vẫn chưa kịp nói điều đặc biệt nhất, chưa kịp nói cả lời xin lỗi nữa. Trong khi đó ở nhà Hân, được sự đồng tình của mẹ Hân, cả lớp đang tất bật với nến, hoa hồng, ruy băng… nhặng xị. Tại sao ư? Hân và Nguyên là cặp đôi đặc biệt nhất của lớp mà. Thử hỏi đã có ai thân nhau đến thế chưa? À không, phải nói là đã có ai từng thích nhau như vậy chưa? Chúng nó thích nhau mà chẳng đứa nào chịu nói. Nên bốn mươi ba đứa lớp này đành trở thành ông mai bà mối vậy. Tôi dừng xe bên cổng nhà, quay ra sau định gọi Hân dậy. Nhưng cô bạn đang ngủ rất ngon, tôi không nỡ đánh thức. Gương mặt Hân khi ngủ trông đáng yêu thế! Tôi chỉ muốn véo má cô bạn một cái. Đưa tay lên, vuốt nhẹ mái tóc ngố bị gió thổi tung, tôi bỗng thấy tim mình loạn nhịp. Tôi cứ ngồi yên trên xe, chẳng dám cựa mình. Có lẽ mấy ngày nay thức canh bé Nhi nên Hân mệt lắm rồi. Chợt thấy đèn sáng trong nhà, tôi tò mò nhìn vào trong qua kẽ hở của giàn dây leo trước cửa. Đúng lúc ấy, Hân dụi mắt tỉnh dậy. -Xin lỗi cậu, tớ ngủ quên mất! -Suỵt! Cậu nhìn kìa! Lũ quỷ này định làm cái gì thế không biết? Hân ghé sát bên cạnh tôi, nhìn vào trong. Căn nhà đã được tắt bớt đèn đi, rồi sau đó là ánh nến lung linh. Tiếp theo, đèn lại được bật sáng, giọng của lớp trưởng “bà chằn” vang lên. -Ổn rồi! Nhất định hai đứa này sẽ phải bất ngờ cho mà xem! -Vậy nghĩa là sao nhỉ? – Hân thì thầm. -Bọn nó định ghép đôi hai đứa mình! Tôi và Hân cùng một lúc thốt ra câu đó và cùng quay sang tròn mắt nhìn nhau. Tôi bỗng phì cười. -Cậu có muốn chuồn khỏi đây không? -Tất nhiên rồi! Tôi đạp xe, chở Hân đằng sau như biết bao nhiêu lần khác, miệng vẫn chưa khép lại được. Sao lại có cảnh hài hước đến thế này cơ chứ? Hai chúng tôi đang trốn chạy bữa tiệc được dành riêng cho chính mình. -Haha… -Cậu vẫn chưa thôi cười đi à? -Vui đấy chứ! Tớ cứ tưởng tượng đến cảnh bọn nó ngồi đợi cả đêm không thấy mình về thì… -Này, cậu muốn đưa tớ cả đêm đi đâu hả? -Đến một nơi đặc biệt! Hân thôi tranh luận. Cô bạn tựa nhẹ vào lưng tôi, hát vu vơ một bài hát tiếng Trung nào đó. … Nhìn bên trái, bên phải rồi trước mặt. Tình yêu phải rẽ vài vòng mới đến. Khi gặp người đó, em sẽ nói gì đây? Người mà em chờ đợi, anh ấy ở nơi xa xôi nào trong tương lai. Em nghe thấy gió thổi đến, từ xe điện ngầm và dòng người đông đúc. Em lặng lẽ đứng xếp hàng với chiếc vé tình yêu nắm chặt trong tay… Không biết từ lúc nào, tôi thấy miệng mình đã vẽ ra một nụ cười thật tươi. Cảm giác có Hân bên cạnh thật sự vô cùng ấm áp. Dừng lại ở công viên cách nhà không xa, chúng tôi cùng dạo bộ quanh bờ hồ. Trời tối dần, không khí ẩm ướt và hơi lạnh. Tôi vờ tình cờ nắm tay Hân, rồi cứ giữ chẳng chịu buông ra. Hân lúng túng, mặt đỏ bừng lên. Tôi lại càng thấy cô bạn đáng yêu không thể tả. -Hân này! -Gì? -Cậu… có gì muốn nói với tớ không? – Hỏi xong tôi tự gõ vào đầu mình, lẽ ra tôi phải là người nói với Hân mới đúng chứ. -Ơ… không… không có gì! -Không có thật sao? – Tôi đang làm cái quái gì vậy nhỉ? Hân hướng ánh nhìn ra phía mặt hồ xa xăm. Cô bạn im lặng, thả hồn theo cơn gió thoảng qua. Lúc chiều tôi quyết tâm bao nhiêu thì bây giờ tôi bối rối bấy nhiêu. Một câu thôi mà sao khó nói thế? -Hai người định trốn bọn này đến bao giờ? -Phải phạt thôi, còn gì là kỉ luật và uy nghiêm của lớp trưởng nữa chứ! -Bắt cóc cả hai cho tớ! Chưa kịp hiểu ra chuyện gì thì tôi và Hân đã bị bịt mắt lại. Giọng của “lũ quỷ” trong lớp ồn ào cả lên. Khi được mở khăn bịt mắt ra, tôi thấy mình đang đứng trên bãi cỏ của công viên, Hân vẫn đang nắm chặt tay tôi sau phản xạ lúc nãy. Trước mắt chúng tôi là hàng trăm ngọn nến xếp thành hình trái tim cùng với dòng chữ: “Luôn sẵn sàng tặng cậu một cái ôm”. Tôi nhìn Hân, mắt cô bạn long lanh dường như sắp khóc. Tôi dịu dàng lau đi giọt nước vừa kịp thành hình trên khóe mắt Hân. -Thôi nào! Cậu đúng là trẻ con! Làm thế nào để cậu đừng khóc đây nhỉ? Nước mắt Hân càng chảy nhiều hơn. Cô bạn nức nở. -Cậu… Cảm ơn cậu! Tôi siết chặt tay cô bạn nhỏ, đặt một ngón tay lên miệng Hân. -Cậu không cần phải nói gì cả. Chỉ cần cậu biết rằng tớ luôn ở bên cậu, luôn lắng nghe cậu, luôn muốn chiều theo mọi sở thích của cậu, luôn luôn nhớ cậu và… luôn sẵn sàng tặng cậu thật nhiều thật nhiều thật nhiều cái ôm. Chỉ thế thôi, đó là tất cả những gì tớ có thể làm cho cậu! -Ngay bây giờ, tớ muốn… mượn vai cậu… được không? Tôi để Hân khóc trên vai mình. Những giọt nước mắt của hạnh phúc, tôi biết. Có quá phí thời gian không nhỉ? Khi mãi đến bây giờ tôi mới nhận ra tình cảm từ trái tim mình? Có quá muộn không nhỉ? Khi mà đến bây giờ tôi vẫn chưa hoàn toàn nói ra được điều cần nói? Nhưng hình như tất cả đã không còn quan trọng nữa. Dù sao, cậu vẫn luôn đặc biệt mà! Nhẹ ôm lấy vai Hân, tôi thì thầm. -Luôn sẵn sàng, thưa tiểu thư! Đừng ngại để người bạn yêu tựa vào vai bạn. Đừng ngại xuất hiện khi người yêu bạn đang cần. Đừng ngại trở thành điểm tựa. Và đừng ngại ngần làm tất cả cho người mình yêu. Bởi một khi đã yêu, bạn không thể đưa ra quyết định bằng lí trí. Luôn sẵn sàng, thưa tiểu thư! st.
CHUÔNG GIÓ MÀU TÍM Đoàn Thị Hồng Thủy *** Anh biết không Sơn, tình yêu đích thực ấy, cũng như âm thanh của chuông gió, mỏng mảnh đẹp đẽ và cũng thật khó nắm bắt. Nhưng nó chẳng bao giờ mất đi cả, chỉ cần có gió thì chuông gió sẽ lại kêu Ký ức Mấy đứa bạn thân vẫn bảo Nga là mẫu con gái chỉ tồn tại trong tiểu thuyết, truyện tranh và phim ảnh. Nghĩa là nhạy cảm quá, lãng mạn quá, chung tình quá! Nga chỉ cười. Nga cũng có muốn thế đâu, nhưng biết làm sao được, tại vì đó là Nga và… cũng tại vì đó là Sơn. Nga gặp Sơn trong kỳ thi học sinh giỏi năm lớp 4. Nói ra thì chẳng ai tin nhưng ngay từ ánh mắt đầu tiên Nga đã đổ Sơn, đổ đứ đừ đừ. Chuyện say nắng trẻ con tưởng thế là xong nhưng chắc là duyên phận nó không buông tha Nga (!) nên giữa học kỳ II, Sơn chuyển đến. Trường của Nga, lớp của Nga. Sơn đẹp trai, học giỏi. Nhưng tính tình đáng ghét không chịu được. Thế mà Nga vẫn thích Sơn, thích đến phi lý, thích đến không chịu nổi (!). Thích đến mức Nga đâm ra cáu cả với bản thân, cáu vì không dám nói, cáu vì sao Sơn lạnh lùng thế, sao chẳng bao giờ biểu lộ chút ít rằng Sơn cũng thích Nga! Lên cấp II, vẫn chung lớp và Nga vẫn thích Sơn. Nhưng Sơn không còn lạnh lùng nữa, Sơn quay sang… thích một cô bạn khác. Nga xé tan cuốn nhật ký đầy những dòng chữ về Sơn, quệt nước mắt và tự nhủ rằng lần này sẽ ghét Sơn thật, ghét mãi mãi. Sang cấp III, hai đứa chung truờng nhưng khác lớp. Hình như Nga đã quên Sơn thật rồi, chỉ thỉnh thoảng vẫn lắng tai nghe khi biết Sơn có bạn gái, chỉ thỉnh thoảng vẫn cười khi gặp Sơn trên đường. Trái tim con gái mới lớn mềm lắm, thích lưu giữ kỷ niệm như món đồ yêu thích để lâu lâu lôi ra ngắm nghía và mỉm cười. Nga đỗ ĐH. Ngày chia tay ngôi truờng quen thuộc, Nga mua một chiếc chuông gió màu tím, treo lên khung cửa sổ ngập gió và nắng. Tiếng chuông leng keng leng keng mỏng tang, trong vắt. Nga gửi một phần ký ức vào tiếng chuông ấy để gió cuốn đi, cuốn xa, xa mãi. Chuông rung Ba năm trôi qua, Sơn đã gần như hoàn toàn biến mất khỏi ký ức của Nga, chỉ thi thoảng, rất thi thoảng thôi mới lại xuất hiện trong giấc mơ nhạt nhoà của thiếu nữ như vệt nắng bướng bỉnh cuối chiều dùng dằng chưa tắt hẳn. Giờ đây Nga có thể vừa đi bộ vừa thản nhiên bàn tán trêu đùa với hai con bạn thân về cái ngày xưa cũ kỹ và ngốc nghếch ấy. Vậy mà…Sơn không để cho Nga yên. Giữa lúc câu chuyện đang sôi nổi, Sơn dừng xe, xen vào giữa ba cô gái: - Chào, lâu lắm không gặp! Chỉ thế thôi mà tim Nga chòng chành. Khi hai con bạn rất tự nhiên thoải mái hỏi Sơn đủ thứ chuyện thì Nga hầu như im lặng. Sơn khác quá. Trước mặt Nga là một chàng thanh niên đã hoàn toàn trưởng thành, ánh mắt rắn rỏi, bờ vai vững chắc. Nga cảm thấy nước mắt chực trào ra đến nơi. Sơn vẫn cười, còn hỏi Nga có người yêu chưa. Nga lắc đầu. Nga cố cười một cái mà không nổi. Đã 3 năm rồi, 3 năm Nga không gặp Sơn dù hai đứa học ĐH chung thành phố. Hốt nhiên con bạn đáng ghét (hay đáng yêu) chỉ về phía Nga, giọng nửa đùa nửa thật: - Ông có rảnh thì đưa nó đi chơi với! Nó dở hơi lắm, ở giữa thủ đô mà chẳng chịu hưởng thụ gì cả, suốt ngày chỉ sách với vở. Sơn gật gật, quay sang nháy mắt với Nga một cái. Nga lặng đi, bỗng nghe trong đầu hình như có tiếng leng keng. Gió cuốn đi tiếng chuông gió và rồi lại trả lại, nguyên vẹn. Bước tới Nga không còn là con bé con học lớp 4 nữa, cũng không còn là cô nữ sinh cấp II cấp III. Nga yêu và muốn được nói ra tình yêu ấy. Chỉ cần một lần với tất cả khắc khoải tích tụ bao năm và toàn bộ can đảm có thể gom góp. Dù cánh cửa mở ra hay khép lại thì Nga tin rằng từ nay có thể nhẹ lòng bước tiếp mà không cần phải nuối tiếc nhìn về phía sau nữa. Cánh cửa vẫn khép. Nga khóc thêm một trận rồi mỉm cười, tháo chiếc chuông gió khỏi ô cửa sổ. Hôn nhẹ lên ngôi sao màu tím, Nga thì thầm: “Tạm biệt!”. Chiếc chuông được đặt vào ngăn kéo cuối cùng, khoá chặt. Xuất phát “Sơn buồn quá! Nga có thể chia sẻ nỗi buồn với Sơn không?” 12h đêm. Màn hình điên thoại loé sáng, phả vào khuôn mặt ngái ngủ của Nga màu xanh chập chờn. Không chủ định nhưng Nga vẫn bật dậy đọc đi đọc lại tin nhắn ngắn ngủi. Những con chữ như xô lệch nhau. Kể từ sau khoảng thời gian ấy hai đứa y như hai dòng kẻ song song, không có giao điểm. Nhưng giờ đây Sơn tìm Nga. Linh cảm con gái trong Nga rung lên. Những ngón tay lẩy bẩy, truợt khỏi bàn phím. - Sơn đây - Sơn gọi thẳng, không đợi mail hồi đáp - Nga ngủ chưa? - Chưa - Nga đáp, hoàn toàn tỉnh táo. - Vậy Nga nói chuyện với Sơn một lát nhé? - Ừ! - Sơn gặp chút chuyện Nga ạ. Nhưng Nga đừng hỏi là chuyện gì nhé! Chỉ biết là giờ tâm trạng Sơn y như tờ giấy nhàu nhĩ, cần có người giúp vuốt thẳng lại. Ở cái nơi xa lạ này chỉ có mình Nga là người quen cũ, biết Sơn lâu nhất thôi. Suốt phần còn lại của đêm hôm ấy Nga hầu như chỉ lắng nghe. Sơn nói toàn chuyện linh tinh, tràn từ chuyện này sang chuyện khác. Nỗi buồn như cốc cà phê đặc, khó uống đến mấy nhâm nhi mãi cũng phải cạn. Khi mặt trời hắt tia nắng đầu tiên lên bệ cửa sổ thì Nga đặt mobile xuống, đứng dậy mở ngăn kéo cuối cùng ra. Chiếc chuông gió vẫn nằm yên tĩnh, hắt lên màu tím trong suốt đến lạ lùng. Nga treo chiếc chuông lại chỗ cũ. Không có gió nhưng những ống kim loại vẫn va vào nhau kêu leng keng leng keng. Hành khất - “Em yêu, chào buổi sáng !” - “Em yêu, chúc ngủ ngon !” Rất nhiều lần Nga tự hỏi không biết mình có phải là một cô gái quá dễ dãi trong tình yêu không, bởi một cái ôm đã đủ để Nga ở bên Sơn vô điều kiện, bởi chỉ cần hai tin nhắn suốt cả ngày đã làm Nga vui sưóng đến điên lên. Nhưng không phải thế. Chẳng ai biết Nga thèm được nghe nhiều thật nhiều câu yêu thương ra sao, thèm được trò chuyện nhắn tin thật lâu cho thoả nỗi nhớ nhung thế nào. Thế mà Nga vẫn luôn phải giữ vẻ thăng bằng tuyệt vời, hài lòng với những gì nhận được. Ngay cả khi Sơn không liên lạc gì suốt vài ba ngày. Ngay cả khi những tin nhắn quan tâm không được hồi đáp. Ngay cả khi Sơn cáu kỉnh giận dữ vô cớ. Và ngay cả khi Sơn chưa bao giờ nói được với Nga một lời yêu hoàn chỉnh. Trong tình yêu ai yêu nhiều hơn sẽ là kẻ yếu thế. Nga chưa khi nào tính toán kiểu ấy, nhưng giờ đây… Không, Nga không hối hận vì đã dành tình cảm cho Sơn. Chỉ có điều Nga không muốn làm một kẻ hành khất, nghèo túng dến mức phải đi mót tình yêu và hạnh phúc từ người khác. Sinh nhật Nga. Nga chọn chiếc váy trang nhã thậm chí còn trang điểm đôi chút và hồi hộp chờ đợi. Sáng, trưa, chiều rồi chiều tối. Niềm háo hức cạn dần theo mỗi phút lạnh lùng trôi qua. Đến khi trời tối hẳn thì Nga không chịu nổi nữa. Nga lên xe, phóng tới chỗ trọ của Sơn. Sơn về muộn. Thấy bóng Nga đứng im lặng bên cánh cửa, Sơn ngạc nhiên rồi khó chịu: - Sao em tới mà không báo trước? - Anh ăn tối chưa? - Nga không trả lời mà hỏi lại. - Chưa. - Vậy anh mở cửa đi. Em sẽ nấu bữa tối. Em mang đồ tới rồi. Nga giơ chiếc túi nặng trĩu lên, nói. Bữa ăn diễn ra trong im lặng. Đang gắp vào bát Sơn miếng nem rán, Nga bỗng dừng lại, hỏi một câu, giọng nhẹ tênh: - Em có làm phiền anh không? Sơn ngẩng lên, ngạc nhiên rồi ú ớ. Nga cười: - Em đùa thôi! Bữa tối kết thúc, Nga dọn dẹp gọn ghẽ rồi xách túi ra về. Bước ngang qua cửa, Nga đột ngột dừng lại, chừng như bỏ quên món đồ nào đó: - Này anh không biết đâu, em thích anh từ hồi năm lớp 4 cơ đấy! Nga lại cười nhưng lần này không kèm câu “em đùa thôi” đằng sau nữa. Còn Sơn sững ra như một thằng ngốc lần hai. Nga vẫy tay, bước ra sân lấy xe phóng đi. Không ai biết làn gió lạnh đêm đó đã lau khô rất nhiều nước mắt trên gò má trắng xanh. Suốt đêm ấy Nga ngồi rất lâu bên khung cửa sổ. Tiếng chuông gió yếu ớt lúc có lúc không. Mobile liên tục loé sáng báo cuộc gọi lỡ và tin nhắn. Đêm nay ít gió quá. Ừ, dù chuông tha thiết muốn ngân vang nhưng đâu phải lúc nào gió cũng thổi đúng không? - “Anh có yêu em không?” Ốc sên Sau tin nhắn cuối cùng ấy Nga không gặp Sơn nữa. Như chú ốc sên cô độc Nga rúc sâu vào cái vỏ của mình, tự gặm nhấm và hàn gắn vết thương. Sơn vẫn liên tục gọi điện, gửi tin, email thậm chí thông qua bạn bè tìm cách gặp Nga. Nga biết hết, thậm chí cũng có lúc mềm lòng, định nhượng bộ nhưng rồi kịp kềm lại, tự nhắc nhở bản thân phải kiên cường hơn. Một tháng sau, Nga đọc được những dòng comment trên blog: - “Anh xin em. Anh sắp phát điên rồi!” Nga đọc đi đọc lại dòng chữ ngắn ngủi rồi rút điện thoại, bấm số của Sơn. Cho một cuộc hẹn. Sơn đến rất sớm. Chiếc bàn quen thuộc vẫn trống trơn. Sơn ngơ ngác ngó quanh, cố tìm kiếm một bóng dáng thân yêu. - Thưa anh là Sơn? Tiếng người bồi bàn vang lên sau lưng... Sơn ngoảnh lại. Anh ta đặt vào tay Sơn một hộp giấy nhỏ, nói: - Có người gửi cho anh thứ này. Sơn quay lại chỗ ngồi, lặng yên ngắm chiếc hộp một lát rồi mới cẩn thận mở ra. Bên trong là một chiếc chuông gió màu tím tuyệt đẹp. Khi Sơn nhấc nó lên, những ống kim loại khẽ va vào nhau tạo thành âm thanh mảnh dẻ trong trẻo. Đáy hộp còn một tấm bưu thiếp gấp đôi. “Sơn anh đừng giận khi em lẩn trốn không ra gặp mặt anh. Em cần có thời gian để lấy lại sự bình ổn cho bản thân. Hơn nữa, nói ra thì xấu hổ, em sợ chỉ cần thấy mặt anh là em sẽ lại nhào vào vòng tay anh mất. Bởi em còn yêu anh nhiều lắm! Nhưng nếu như thế liệu tình yêu của chúng mình có khác đi không hay lại đi vào lối mòn như cũ, cứ mãi dằn vặt và làm tổn thương lẫn nhau. Anh hãy cho em, cho anh và cho cả tình yêu của chúng mình thêm chút ít thời gian nữa nhé. Anh biết không Sơn, tình yêu đích thực ấy, cũng như âm thanh của chuông gió, mỏng mảnh đẹp đẽ và cũng thật khó nắm bắt. Nhưng nó chẳng bao giờ mất đi cả, chỉ cần có gió thì chuông gió sẽ lại kêu”. Sơn lặng đi, cảm thấy giọng nói dịu dàng của Nga, trái tim tha thiết của Nga đang rất gần đâu đây. Chờ Từ hôm ấy bên khung cửa sổ của một chàng trai có treo một chiếc chuông gió. Lần này đến lượt chàng trai chờ đợi, chờ ngày có gió thổi và chuông gió lại kêu. &&&&&
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sen rụng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Ngọc Diễm[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Miền Trung mùa bão nổi. Anh ở nơi nào có biết trong lòng em hàng vạn cơn sóng dâng trào, muốn hất tung rồi lại muốn ôm ấp vỗ về những kỷ niệm ngày xưa. Em vẫn luôn tự hỏi người ta tìm thấy gì ở những cơn mưa nhưng hôm nay dưới cơn mưa Huế dằng dai, những cơn mưa của tình thân ấy làm em thắt ruột. Anh thân yêu, anh như con tàu đi qua đời em để lại đường ray dài hun hút mong tàu quay về lại sân ga. Em đã thấy đường tàu dài vô tận như khoảng cách vô tận em đứng nhìn theo không tìm thấy điểm dừng cho anh cho em. Anh còn nhớ chiều ấy bên hồ sen, anh hái sen cho nhà chùa và anh đã tặng em một bông sen rất đẹp, chính nơi ấy đã đưa ta lại gần nhau để bây giờ ngoảnh mặt làm ngơ. Bây giờ em lại ra đây, một cậu bé khác hái sen cho chùa thay anh và vô tình thay cậu bé đưa cho em một bông sen nhưng khi em vừa chạm tay vào, từng cánh sen rụng tơi tả rũ ngay dưới chân em, như những mảnh vở chúng ta tạo ra cho nhau. Buồn đau!... Anh bảo anh là “thiên tài” bởi anh đã khám phá ra bản chất thật sự của con bé tóc ngắn xứ lạ lúc nào cũng khó đăm đăm, chỉ cần một vầng thơ, một tiếng đàn hay một đóa hoa sen thôi cũng đủ để em rũ người ngoan ngoãn như con mèo ngoan trong tay anh. Nhưng anh ơi, anh là một thiên tài ác độc bởi anh đã bỏ dở công trình, để bây giờ con bé ấy bơ vơ lơ lửng không biết phải quay về bản chất thật hay tự mình phải hoàn thành tiếp những kết quả của anh, bởi chính em cũng không biết đâu là con người của em? Dường như chỉ bên anh em mới là em nhưng bây giờ đây không còn anh, không có anh, em như con thú hoang mang trên mình tìm vết thương tìm về hang động chờ ngày tắt thở. Em không muốn mình yếu đuối mà sao mỗi lần xuống phố em luôn mang theo nỗi buồn xuống phố đông, để bất chợt thắt lòng với bài thơ của ai bỏ ngỏ: Ai chợt qua có phải là anh không Sao giống quá lại hình như không giống Niềm vui chợt đến bỗng vỡ thành bọt sóng Mắt ai nhìn đăm đăm phía không anh…[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sóng xa Bờ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quân Thiên Kim[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Xế chiều, lúc thằng Câm đang ngồi loay hoay rửa sạch những lon bia bên bờ biển cho trôi cát dính, một bàn tay kéo giật làm nó té bệt xuống đất. Sóng biển tràn lên ướt mông quần. Câm giận dữ ú ớ quay lại. Điệu bộ cuống cuồng và thảng thốt của bà Tư làm nó ngớ người. - Lẹ đi Câm ơi! Thằng Câm vội vã lồm cồm ngồi dậy quơ vội những lon bia gom vào bọc. Bà Tư kéo giật cánh tay nó lôi đi, khuôn mặt lộ ra vẻ căm phẫn. Thằng Câm sợ hãi chạy theo, không biết rằng ánh mắt đó không phải dành cho nó. Nó bươn dốc bằng cả hai tay. Thoáng chốc nó kịp nhào đến bên mẹ nó. Mẹ thằng Câm gần như đã lịm đi, nhưng nỗi đau nào đó khiến người đàn bà quằn quại điên dại. Thằng Câm thấy người mẹ đầy máu. Đám đàn bà la hét gì đó. Một người đàn ông từ bên nhóm kia tách ra cúi xuống vực mẹ thằng Câm chạy trở ra cổng khu du lịch. Máu loang chỗ mẹ nó nằm. Thằng Câm nhìn sang. Ba nó đang gầm thét vùng ra khỏi vòng tay của ba người đàn ông. Không ai kể cho thằng Câm nghe về chuyện đã xảy ra khi nó dưới bãi biển. Ba nó tìm đến khu bán hải sản, bắt vợ đưa tiền nhậu. Nhưng hôm đó du khách đến bãi ít, tiền bán không đủ lời, mẹ thằng Câm đã không chịu đưa tiền. Đứa bé sắp chào đời khiến người đàn bà tội nghiệp muốn phòng chút tiền vốn còm. Ba thằng Câm gầm lên. Mẹ nó hoảng hốt chạy lên con dốc cát. Ba thằng Câm có chút hơi men đạp gánh bún đổ tung. Đám người bán nhốn nháo không ai dám lại gần. Ai cũng biết ông ta nổi tiếng hung bạo. Đến khi ông ta chụp khúc cây rượt theo vợ lên đồi cát và phang chí tử vào người, vào cái bụng đã nổi lớn của vợ, đám đàn bà la hét cầu cứu. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mẹ thằng Câm nằm luôn trên trạm y tế mấy ngày. Mẹ nó vẫn thiêm thiếp, mặc cho bé Út ôm mẹ gọi, mắt hãy còn ướt nhòe vì cả ngày khóc mếu. Thằng Câm ngồi im nhìn mẹ nó thở phập phồng. Cái đau đớn mà mẹ nó chịu đựng không phải chỉ là thể xác. Em bé trong bụng của mẹ đã chết rồi. Vùng biển nghèo chạy tuôn mồ hôi mà cuộc sống vẫn khốn khó. Cũng như nhiều người phụ nữ khác ở đây, mẹ thằng Câm làm đủ thứ: cào muối, gánh muối, ướp cá làm mắm v.v... Ông chồng càng ngày càng coi thường người vợ gầy đét và đen nhẻm suốt ngày lam lũ. Ở vùng biển quên này, những người vợ tảo tần sớm hôm và hy sinh cả đời cho chồng con nhưng không khi nào được chồng coi trọng dù luôn là người trang trải gồng gánh cho cả nhà. Nhưng không ai than phiền vì điều đó. Chưa có một người đàn bà nào cảm thấy họ chịu nhiều sự bất công. Thấy làm sao được khi bước chân chưa bao giờ rời qua xóm, và khi quanh mình ai cũng như ai? Những ông chồng luôn đẩy ngực cho rằng mình là trụ cột chính vì đi biển mang tiền về mà không hay số tiền còm cõi ấy không đủ chi dùng cho chính bản thân anh ta. Và bản tính gà trống luôn khiến anh ta vênh váo chứng tỏ ta là đàn ông bằng cách la hét thị uy với vợ, thẳng tay tát cho một cái nếu muốn và thằng đàn ông mạnh mẽ nhất là kẻ có trong tay nhiều vợ nhỏ nhất!!! Khi bãi biển cát trắng mịn bên khu rừng dương được khách du lịch tìm tới mỗi ngày mỗi đông, những người phụ nữ địa phương ra đó bán đồ biển. Ở đó, họ đã nhìn thấy những điều mà cuộc đời họ, mẹ và bà nội, bà ngoại, bà cố của họ chưa từng thấy: Những đôi vợ chồng già có, trẻ có, đối xử với nhau thật yêu thương, tôn trọng. Họ mới hiểu ra trong đời có những người đàn ông như thế: nhẹ nhàng thoa kem lên người vợ, cẩn thận bóc vỏ ghẹ, vỏ tôm cho con cái ăn với điệu bộ rất nhẹ nhàng và tươi tắn. Họ không khi nào nói nặng lời mà gọi "em ơi" rất ngọt ngào. Và người vợ cũng thật hạnh phúc rót bia cho chồng uống hoặc đùa giỡn sóng với chồng con. Những cặp tình nhân thì khỏi phải nói. Những phụ nữ đến đây thật hạnh phúc! Ban đầu những người phụ nữ địa phương tự nhủ với chính mình: tại vì những người ấy có tiền. Sau nữa họ bắt đầu trò chuyện với nhau, xa xa gần gần rằng những người đàn ông thành phố không bao giờ chửi mắng đánh đập vợ con??? Họ thầm mong ước vì họ đã nhìn thấy có những cuộc đời khác. Có một điều mẹ thằng Câm không bao giờ kể, rằng có một lần khi ba thằng Câm đến bãi dương đánh vợ hai bạt tai rồi rời khỏi đó khi vợ nhẫn nhịn không dám nói một câu, lặng lẽ đưa cho chồng ít tiền, lúc đó đã có một du khách nhìn thấy. Thấy thì nhiều người thấy, nhưng người đàn ông đó một lúc sau kêu mẹ thằng Câm mang tô bún tới. Ông ngồi trông đồ cho vợ và con gái tắm dưới biển, nhờ mẹ thằng Câm kêu cho mấy lon bia. Khi mẹ thằng Câm lấy bia của chị Hai đem lại, dặn: - Anh uống xong cho cháu nó mấy cái vỏ bia bán kiếm tiền ăn kẹo. Cháu nó đứng kia. Má thằng Câm chỉ nó đứng gần đó. Ông khách nhìn nhận mặt: - Con lớn của chị hả? - Dạ, cháu bị câm điếc. - Câm bẩm sinh? - Dạ. - Không chắc, có thể cháu điếc nhưng không câm, chị có đưa cháu đi bác sĩ chưa? - chị lắc đầu - Sao chị không cho cháu đi học trường khuyết tật? Nếu cháu chỉ điếc người ta sẽ dạy cho cháu nói. Khắp người mẹ thằng Câm rùng lên. Vì giọng nói ấm áp quan tâm của người đàn ông và nhất là vì ông ấy nói thằng Câm sẽ có thể nói. - Chồng chị hay đánh chị lắm hả? Mẹ thằng Câm cúi mặt giấu những vết bầm. Nhận ra mình thật mất lịch sự, người đàn ông thở dài: - Nếu chồng đã không thương yêu mình thì chịu đựng làm gì? Chị tìm cách lo cho thằng bé, chẳng lẽ để nó câm điếc tha thẩn suốt ngày ngoài biển nhặt vỏ lon? Cuộc chuyện trò ngắn ngủi nhưng đã khiến cho mẹ thằng Câm nuôi hy vọng mong manh về đứa con trai của mình. Một điều khác lạ mà mẹ nó không hiểu rõ nhưng luôn ám ảnh đầu là: chồng không yêu thương mình sao mình lại phải chịu đựng? Đó là những suy nghĩ phản kháng đầu tiên mà không bao giờ mẹ thằng Câm dám nói. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hai hôm nay mẹ nó đã khỏe lên nhiều. Ngày hôm qua, mẹ ôm bé Út khóc rất nhiều. Mẹ còn vuốt tóc nói với thằng Câm gì đó. Nó không hiểu nhưng chỉ biết ánh mắt mẹ rất buồn, nhìn nó xót xa. Nó chẳng biết phải làm gì, cầm tay mẹ rưng rưng. Chiều nay thằng Câm mang lên cháo trứng, cầm theo hai mảnh lá dừa định bụng tết cho mẹ xem con cào cào nó vừa học được. - Hai đứa lên thăm mẹ hả? Cô y tá nhìn nó dò hỏi khi hai anh em vừa bước vào. Rồi chợt nhớ thằng Câm không nghe được, cô thở dài dẫn hai anh em đến chỗ mẹ nó. Ngay từ xa, thằng Câm đã thấy cái giường trống trơn. Cô y tá bế bé Út lên: - Mẹ của con bỏ đi rồi. Bé Út không hiểu, nó òa khóc. Hai người áo trắng khác đi lại, ra dấu cho thằng Câm hiểu mẹ nó đã rời khỏi trạm y tế. Thằng Câm gần như giật bé Út xuống, hộc tốc chạy về nhà đón mẹ. Cô y tá nhìn theo hai anh em nó nói với đồng nghiệp: - Chị ấy không về nhà, trốn kiểu này là trốn ba nó, bỏ đi luôn rồi. - Ông chồng như vậy, sống chung có ngày bị ổng đánh chết không chừng. Việc mẹ nó bỏ đi khiến bà nội nó sụp hẳn. Bé Út hai tuổi chưa biết gì ngoài chuyện nhớ mẹ khóc suốt ngày. Ba thằng Câm lồng lộn như con gà trống bị thương hoặc bị rút hết lông đuôi. Người đàn ông duy nhất trong nhà bây giờ chính là thằng Câm. Mười tuổi, thằng Câm tiếp tục nhặt lon bia trong khu du lịch kiếm tiền cho nội mua gạo. Ba nó không đụng đến tiền của nó nữa, nhưng bằng đó vẫn không đủ cho anh em nó ăn no. Bé Út lớn tuổi mà không lớn người. Gần hai năm sau, khi thằng Câm đang lang thang ngoài bờ biển với bọc lon, mẹ nó đã chạy nhào đến ôm chặt nó vào lòng. Tiếng hức hức bật ra từ miệng thằng Câm đầy đau đớn hờn tủi. Hai mẹ con ôm nhau khóc ròng dưới rừng dương. - Mẹ về thăm con và em, mẹ không ở đây được... Mẹ sẽ kiếm tiền cho con ra thành phố chữa bệnh, rồi con sẽ biết nói, Câm à. Mẹ bưng mặt thằng Câm nói, ánh mắt chứa chan hy vọng. Mọi người xung quanh à lên: mẹ thằng Câm về thành phố. Chỉ có thằng Câm là chẳng hiểu gì. Một chốc sau, hai mẹ con kéo tay nhau về nhà thăm nội và bé Út. Cả nhà mừng tủi ôm nhau chưa được bao lâu, chưa hỏi thăm được gì thì ba thằng Câm về tới. Con gà trống chứng tỏ sự kiêu hùng của mình bằng con dao rựa rút phăng từ góc bếp. Mẹ thằng Câm chạy. Tao giết, giết! Dám vác xác về đây tao giết mày! Cả xóm náo loạn. Thằng Câm vút chạy theo mẹ nhưng thoáng chốc mẹ nó đã mất dấu trong xóm ngoằn ngoèo. Mẹ nó chạy thoát rồi biến mất tăm như hai năm trước. Khi thằng Câm quay về nhà, ba nó vẫn điên khùng hăm dọa chém giết như để chứng tỏ ta là thằng đàn ông chính hiệu. Lần đầu tiên, thằng Câm nổi lên một sự giận dữ với chính ba nó. Lần đầu tiên thằng Câm nhận ra cha nó chỉ là một thằng đàn ông hèn mạt, hung bạo. Ở ngoài bãi nhiều, nó thấy những người cha từ nơi nào đó đến tắm biển, chăm sóc cho con cái của họ, cõng chúng trên vai và chơi đá banh, cho chúng những món ngon nhất. Thằng Câm thầm ước mình có một người cha như thế, điều ước cũng mong manh như của mẹ nó. Thêm bốn năm trôi qua, mẹ thằng Câm không một lần về quê thăm anh em nó. Thằng Câm không biết từ đâu bà nó có tiền mua kẹo chewing gum cho nó bán thêm ngoài bãi. Bé Út được đi học, buổi nào không học thì ra bãi dương bán kẹo với anh. Thằng anh đưa kẹo cho em bán rồi hí húi tết những con cào cào bằng lá dừa trong khu du lịch. Lúc nào cũng phải đủ cặp hai con đực và cái. Ai cũng khen nó khéo tay. Thằng Câm còn tết em bé có hai tay cử động khi giật giật cọng dừa tặng cho du khách. Du khách nhiều người mến thằng bé câm khi nghe kể chuyện mẹ nó đã bỏ đi, sau khi nhận cặp cào cào lá dừa đã cho nó tiền. Câu chuyện buồn thêm vì ba thằng Câm đã chết cách đó một năm khi ông ta chạy ra ghềnh đá trắng tìm gái. Say men ông té vào bãi đá chết tươi. Hai anh em Câm ở với bà nội. Ngày nào, ngày nào và ngày nào thằng Câm cũng ra bãi với nỗi nhớ mẹ. Khát khao cháy bỏng của nó là mẹ sẽ chạy đến ôm chầm lấy nó như lần nào. Thằng Câm sẽ đưa mẹ về nhà, mẹ sẽ ở lại luôn vì không còn người đàn ông hung ác kia nữa. Thằng Câm không cần biết nói, nó chỉ cần có mẹ, bé Út cũng cần có mẹ. Nhưng đoạn cuối vẫn chưa đến. Bây giờ, ở bất cứ nơi đâu nếu ai đó có quen biết và gặp gỡ người đàn bà bất hạnh ấy hay nếu mẹ thằng Câm đọc được câu chuyện này, nếu còn nhớ đến bãi dương, nhớ đến những dốc cát trắng cao đến nỗi có tên là Dốc Lết, nhớ đến thằng con trai câm và bé gái út hãy quay về, như một con sóng vỗ bờ. Rồi mọi nỗi đau sẽ qua đi. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sứ Giả[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Việt Hùng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Người dân quê tôi năm nay lại rộn ràng chuẩn bị đón một cái tết đầy hoan hỉ. Một cái tết được mùa. Không khí tưng bừng từ đầu làng về mọi ngõ xóm. Nhà nhà đều tất bật. Cái nếp sinh hoạt dân dã của một vùng quê như chẳng mấy thay đổi so với rất nhiều năm trước. Có chăng là bây giờ đã có điện thì có đài, có tivi, có tiếng nhạc tiếng hát. Tôi đi một vòng quanh làng thăm họ hàng. Trước đây, mỗi năm tôi về thăm quê vài ba lần. Từ ngày bố mẹ tôi lên thành phố ở với tôi thì phải một năm, thậm chí hai năm mới về được một lần. Hình như không khí xô bồ của thời mở cửa, sự sôi động kinh doanh mua bán của thời kinh tế thị trường chẳng ảnh hưởng bao nhiêu đến quê tôi. Người ta vẫn đón cái tết cổ truyền theo kiểu rất cổ truyền. Họ ăn tết bằng những sản vật do chính họ sản xuất trong năm. Loanh quanh chán tôi lại đi về nơi giếng làng. Cả làng tôi chỉ dùng chung một cái giếng. Đó là phong tục có từ bao đời nay. Giếng làng to như cái ao và sâu hoắm. Đến mùa khô phải bước xuống hơn chục bậc cấp mới gánh được nước. Cảnh tấp nập vào mỗi buổi sớm ở giếng làng cũng chẳng có gì thay đổi. Nơi ấy còn là nơi người ta gặp nhau để nói đủ thứ chuyện trên đời. Qua khỏi giếng làng, rồi qua một cánh đồng, tôi đến thăm mộ bác Phó. Điều tôi không quên mỗi khi về quê. Bác Phó không còn ai ruột thịt, song ngôi mộ của bác cứ ngày càng cao thêm. Quanh năm, dân cả làng đến thắp hương cho bác. Người làng tôi chẳng còn nhớ tên thật của bác. Bác làm nghề đóng cối. Ngày xưa bác là học trò của ông phó Tấn. Thời ấy ở các xã bên còn có các ông phó Quảng, phó Tài… nhưng cối của ông phó Tấn đóng vẫn được coi là nhất. Dần dần, mấy ông phó kia đi phiêu dạt đâu cả, chỉ còn thầy trò ông phó Tấn đóng cối cho một vùng rộng lớn quanh quê tôi. Mấy ông phó kia về sau chẳng có ai kế nghiệp. Ngày ông phó Tấn qua đời, bác Phó đã nổi tiếng trong nghề làm cối. Một mình bác đóng cối cho các xã trong huyện tôi. Thậm chí còn đi đóng cho các huyện bên cạnh. Có khi nhận lời mời của những nhà khá giả, bác còn sang cả tỉnh khác để làm. Bác Phó góa vợ từ khi đang còn trẻ, song bác cũng chẳng lấy vợ nữa. Mà bác cũng chẳng có con. Anh Nhân, hơn bọn tôi vài ba tuổi, là thợ phụ của bác. Anh vừa là học trò, vừa được bác nhận làm con nuôi. Nghe bảo ngày xưa bác Phó rất thích mẹ anh Nhân. Hai người đã có tình ý với nhau, song ông bà ngoại anh Nhân lại gả mẹ anh cho người làng bên. Bác Phó là người lầm lì ít nói. Anh Nhân còn lầm lì hơn. Bác chỉ thích nói chuyện với bọn trẻ con chúng tôi. Mà hình như bác chỉ thích làm bạn với lũ trẻ. Nghề của bác là phải luôn di chuyển. Mấy chục năm đi đóng cối cho thiên hạ, lang thang khắp chốn, đi qua nhiều vùng quê nên bác biết rất nhiều chuyện lạ. Mỗi khi mà bác kể ra, dân làng tôi cứ tròn xoe mắt vì ngạc nhiên. Ngày ấy, cứ mỗi lần bác Phó đi làm xa về, bọn tôi lại quấn quanh bác. Chúng tôi say mê bác, coi như một thần tượng. Bác Phó kể chuyện ly kì và hấp dẫn lắm. Chuyện gì bác kể cũng hay. Quanh năm bác chỉ mặc chiếc quần lửng, quá đầu gối một ít. Chẳng hiểu cái kiểu quần này bác lấy đâu ra, chứ cả làng tôi chẳng ai mặc thế. Da bác ngăm đen và bóng loáng. Mỗi khi ở nhà hoặc ngồi đóng cối cho họ là bác cởi trần. Bác Phó chịu rét rất giỏi. Những ngày gió bấc, lạnh căm căm, bác chỉ mặc một chiếc áo nâu vải mộc là đủ. Bác có nhiều điểm rất khác người thường. Bác có thể ăn một bữa hết gần hai đấu gạo, có nghĩa bằng sức ăn của bốn, năm nông dân khác cộng lại. Ăn xong một bữa như thế, phải đến ba ngày sau bác mới cần ăn tiếp. Cứ mỗi năm bác lại có một lần, ngủ một giấc dài đúng ba ngày ba đêm. Mà ngáy như sấm. Không ai có thể lay nổi bác dậy trong giấc ngủ ấy. Sau giấc ngủ, bác như người từ thế giới khác trở về. Một hôm, buổi sớm ra giếng làng gánh nước, bác gọi bà Soạn lại – “Xuống dưới ấy tôi gặp thằng Cải đấy!”. “Ông nói cái gì khó nghe thế! Ông đi đâu mà gặp thằng Cải?”. “Thế mới hay chứ!” Bà Soạn chỉ có một người con duy nhất là anh Cải. Anh bị con trâu điên húc chết khi mới mười lăm tuổi. “Nó nói ngày trước nó có để dành được mấy chục đồng, nó giấu trong ống tre ở cái chái gần bếp. Lâu nay nó không biết làm cách nào để báo tin cho bà. Bà cứ về tìm thử xem”. Quả nhiên, bà Soạn tìm thấy một nắm tiền, được gói cẩn thận, giấu trong ống tre gần chái bếp. Bà chạy sang quỳ sụp lạy bác Phó – “Tôi lạy ông, tôi lạy ông, ông đúng là thần thánh chứ không phải người. Thế nó còn nhắn gì tôi nữa không?. “Bà ngồi dậy đi!” Bà Soạn vẫn lạy lục, khóc lóc – “Tôi có mắt cũng như mù. Lâu nay tôi đâu biết ông là thần thánh. Có gì không phải ông tha cho tôi…”. “Nó dặn bà rằm tháng tới cúng cho nó một con gà giò. Ở dưới ấy nó chẳng thiếu gì nhưng vẫn thèm thịt gà trên này. Còn năm nay giỗ nó, bà đừng làm gì. Nó không về được đâu. Nó bận việc phải đi xa lắm!”. Chuyện giữa bác Phó với bà Soạn chẳng mấy mà trong làng rất nhiều người biết. Họ ào ào chạy đến bác, hỏi có gặp người thân của họ dưới ấy. Bác Phó bảo, không phải ai bác cũng gặp được. Và ai nhắn gì bác cũng đều nói lại. Thì ra trong cái giấc ngủ triền miên ba ngày ba đêm, bác Phó đi ngao du dưới âm phủ. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hôm ấy, đi học về, chúng tôi thấy hai dân quân xã đang giải bác Phó đi. Vẻ mặt hai anh dân quân có vẻ căng thẳng, nghiêm trọng. Bác Phó thì cứ lầm lỳ, bước đi khoan thai. Bọn tôi thấy thế sợ lắm. Mặt thằng nào cũng tái mét. Thần tượng của chúng tôi làm sao bị họ bắt đi thế kia? Chúng tôi ôm nguyên sách vở chạy theo xem. “Không khéo… không khéo…bác Phó làm gián điệp cho địch”. – Thằng bạn tôi thì thầm quan trọng. Ngày ấy ở làng tôi, họ cứ đồn đại, có những tên gián điệp thường giả làm ông thiến lợn, hay người ăn mày, lảng vảng khắp nơi dò la tin tức, rồi làm ám hiệu cho máy bay Mỹ ném bom xuống. Cho nên mỗi lần thấy người lạ, nhất là ông thiến lợn vào làng, bọn tôi lại bám theo quan sát, xem có gì mờ ám thì báo cho dân quân. Theo dõi mãi mà chúng tôi vẫn chưa phát hiện được tên gián điệp nào. Chẳng lẽ bác Phó của chúng tôi, một con người hiền hậu và đáng kính lại đi làm giám điệp. Không, không thể tin được! Gián điệp phải là những kẻ có khuôn mặt dữ tợn kia! Họ giải bác Phó lên Ủy ban xã. Anh Bình đang đứng chống nạnh giữa sân Ủy ban. Thấy bọn tôi láo nháo trước cổng, anh quát lớn: “Chúng mày biết gì mà đến đây, mấy thằng nhóc. Đi về nhà hết, tao nhốt lại bây giờ!”. Bọn tôi vội tản ra. Họ đưa bác Phó vào trong hội trường. Chúng tôi loanh quanh, rồi mon men đến bên các cửa sổ nhìn vào. Ủy ban giao việc này cho anh Bình giải quyết. Anh Bình bước qua bước lại, vừa nói anh vừa vung tay, dáng dấp của người lãnh đạo. Anh Bình cũng người làng tôi. Anh là ủy viên thư ký xã. Đấy là mãi sau này tôi mới biết, chứ hồi đó nghe người ta gọi là “anh ủy viên”, mà tôi chưa hiểu “ủy viên” là gì. Anh Bình là người năng nổ, nhiệt tình trong công tác, nhưng anh cũng uy quyền lắm. Anh học hết lớp 8 thì đi bộ đội. Ngày ấy ở quê tôi, học lên đến cấp 3 đã được coi là trí thức rồi. Vào bộ đội, sau khóa huấn luyện tân binh, anh tiếp tục được đào tạo trở thành pháo thủ. Một chiến sĩ cao xạ pháo. Khẩu đội của anh, một trong những khẩu đội ra quân lần đầu đã bắn rơi máy bay ở miền Bắc. Với thành tích chiến đấu dũng cảm, sau đó, anh Bình được kết nạp Đảng ngay bên mâm pháo. Đánh đến trận thứ ba thì anh bị trúng mảnh rốc-két. Khẩu đội của anh được tuyên dương là đơn vị anh hùng. Sau thời gian điều trị ở quân y viện rồi an dưỡng ở trại thương binh, anh được phục viên. Về quê, anh oai phong lẫm liệt. Bọn trẻ con chúng tôi cứ bám theo để nghe anh kể chuyện chiến đấu. Anh Bình là đảng viên trẻ, có học thức, đã kinh qua chiến đấu, lại là thương binh nên mọi người rất kính nể. Anh được bầu vào Đảng ủy xã. Bác Phó bị anh Bình kết tội là đi tuyên truyền mê tín dị đoan trong nhân dân. Bác im lặng cứ cúi đầu nghe. Anh Bình thì thao thao bất tuyệt giảng giải. Phải một lúc lâu bác Phó mới lên tiếng. Bác nói, bác chẳng biết mê tín dị đoan là gì, mà chỉ kể lại cho mọi người nghe giấc mơ của mình. Không muốn kể cũng không được. Họ vừa năn nỉ, vừa nài ép phải kể… Anh Bình dứt khoát không tin. Anh khăng khăng bảo bác Phó bịa đặt xằng bậy, làm nhân dân hoang mang. Dù có thanh minh kiểu gì, bác Phó vẫn bị phạt lao động công ích một tuần, gọi là “cải tạo lao động”, và cấm từ nay không được kể những chuyện nhảm nhí như thế. Vậy là ngày hôm sau, bác lên Ủy ban để lao động. Bác phải tu sửa lại mấy cái hầm tránh bom của Ủy ban. Người ta đã tính cho bác, công việc ấy vừa hết một tuần. Song, do bác Phó có sức khỏe, lại siêng năng và sáng ý, nên chỉ sau ba ngày đã hoàn tất. Bác tưởng làm xong thì được về. Nhưng anh Bình không cho. Mấy ngày tiếp theo, bác phải ở lại nấu nước, phục vụ cho Ủy ban. Trong khoảng thời gian đó, lại có ngày kỷ niệm thương binh liệt sĩ. Bác Phó cứ gọi là tất bật. Ủy ban mời tất cả thương binh, gia đình liệt sĩ trong xã lên gặp mặt, liên hoan trà thuốc, bánh kẹo. Có đội văn nghệ của xã đến biểu diễn. Gọi là đội văn nghệ cho oai, chứ có bao giờ thấy họ tập tành? Ủy ban chọn một số người hát tạm được trong xã, lâu lâu có ngày lễ thì triệu tập đến. Ai muốn hát gì cứ hát. Nếu đúng chủ đề buổi lễ càng tốt. Hôm đó, sau một số thủ tục chính như: tuyên bố lý do; phát biểu của đại diện Ủy ban; đại diện thương binh, đại diện gia đình liệt sĩ lên có đôi lời cảm tưởng với ngày lễ, hoặc ôn lại những kỷ niệm trong chiến đấu… thì đến chương trình văn nghệ. Năm ca sĩ của xã thay nhau lên hát mỗi người mỗi bài. Chẳng có bài nào nói về thương binh cả! Nhưng mà, có ca ngợi anh bộ đội. Thế là tốt lắm rồi. Hát xong một lượt, không ai chịu hát bài thứ hai. Họ đùn đẩy nhau. Chương trình bị gián đoạn. Anh Bình - Trưởng Ban tổ chức – thực sự lúng túng chưa tìm được cách gỡ bí. Khi đó bác Phó đã tạm xong nhiệm vụ nước nôi, cũng đamg đứng xem, và vỗ tay rất to động viên các ca sĩ. Chợt, anh Bình ngẫu hứng nảy ra sáng kiến. Anh bước lên sân khấu – “Giới thiệu với bà con và anh em thương binh, bác Phó… bác Phó của chúng ta sẽ góp vui một bài hát”. Cả hội trường vỗ tay cười ầm ỹ. Bác Phó đỏ mặt bừng vì thẹn. Người ta cười vì bảo, bác Phó – ông Phó cối lầm lỳ cục mịch biết gì mà hát. Người ta còn cười vì, anh Bình đem bác Phó ra mua vui, anh muốn nhạo báng bác. Nhiều người vẫn biết, lâu nay anh Bình thành kiến với bác Phó. Tất cả cũng tại cái cối. Nhiều năm nay, gia đình anh vốn không ưa nhà bà Đoan hàng xóm. Thỉnh thoảng vì chuyện con gà con qué, hai nhà lại tiếng bấc tiếng chì với nhau. Nhưng từ ngày anh Bình làm cán bộ xã, bà Đoan cũng nể sợ. Cái cối xay của nhà bà Đoan được coi là tốt nhất làng. Xay vừa nhẹ, hạt gạo cứ đều tăm tắp, chẳng hề bị vỡ. Rất nhiều nhà trong làng vẫn đến xay nhờ cối bà Đoan, vì không phải nhà ai cũng có cối, chỉ những nhà khá giả mới có. Trong khi cối nhà anh Bình thì chẳng ai hỏi. Bác Phó bảo, vẫn đất sét ấy, vẫn gỗ nêm ấy, và do tay một người đóng, nhưng trong một trăm cái cối, thế nào chẳng có một vài cái trội hơn chút ít. Khổ là cái “trội” ấy không rơi vào nhà anh Bình mà lạc sang nhà bà Đoan. Anh Bình cho bác Phó chơi xỏ anh. Bác Phó đã hết đỏ mặt. Ơ kìa, hình như bác…có ý định lên sân khấu. Mà bác bước lên thật. Rất tự tin. Mọi người trong hội trường còn cười và vỗ tay to hơn nữa. Người ta chưa hiểu bác định giở trò gì. Bác lễ phép cúi đầu chào tất cả- “Kính thưa bà con và anh em thương binh. Tôi chưa hát cho ai nghe bao giờ. Nhưng hôm nay anh Bình bảo hát. Thì tôi cũng xin hát”. Cả hội trường im phăng phắc. Rồi òa lên những tiếng cười, tiếng vỗ tay rầm rầm cổ vũ bác Phó. Hai tay đang trước bụng, bác bắt đầu ngân nga: “Thằng Nha có cái bánh đa, cái bánh đa to tướng bằng ba cái đình.Thằng Nha đem tặng thương binh, đi đến đầu đình thì gặp thằng Nhai. Thằng Nhai có cái bánh gai, cái bánh to tướng bằng hai cái đình. Thằng Nhai đem tặng thương binh, đi đến đầu đình thì gặp thằng Nha. Thằng Nha có cái bánh đa… đi đến đầu đình thì gặp thằng Nhai. Thằng Nhai có cái bánh gai… đi đến đầu đình thì gặp thằng Nha. Thằng Nha… Thằng Nhai…” Chỉ có một cái bánh đa và một cái bánh gai, nhưng tấm lòng thơm thảo của thằng Nha và thằng Nhai có thể to bằng hai, ba cái đình quá đi chứ! Bởi cùng có tấm lòng mộc mạc và chân thành nên chúng cứ liên tục gặp nhau ở đầu đình. Có lẽ chúng đều e dè, thẹn thùng nên cầm cái bánh đi mãi mà chưa tặng được ai. Bác Phó cứ dẫn chúng đi loanh quanh rồi lại đến đầu đình. Không ngờ bác Phó hát hay thế! Say sưa lắm! Mắt bác cứ mơ màng chẳng nhìn ai. Giọng ca đầy quyến luyến, lúc bỗng lúc trầm. Sau này lớn lên, tôi được đi nhiều nơi, đã từng được xem các nghệ sĩ opera biểu diễn. Họ hát hay hơn bác Phó, điều đó đã hẳn, song khả năng say sưa với bài hát thì cũng chỉ ngang bác Phó là cùng. Phải đến mấy chục lần thằng Nha và thằng Nhai đụng đầu nhau “lốp cốp” ở đầu đình mà bài ca vẫn chưa dứt. Anh Bình mặt tái dần, tái dần… rồi nhợt nhạt. Anh cứ hậm hực vò đầu, dậm chân. Trong lúc nghệ sĩ Phó cối mặc quần lửng vẫn mơ màng đắm đuối. “Thôi…ôi…ôi!” – anh Bình vung tay hét lớn. Bác Phó giật thót người. “Hát với chẳng hò. Lấy đâu ra cái kiểu hát lạ kỳ đấy? Nha nha với chẳng nhai nhai. Nhai gì nhai lắm thế! Nhai không chịu nuốt à?!” Bác Phó vẫn bình tĩnh – “Kính thưa bà con và anh em thương binh. Đã bảo tôi chưa hát cho ai nghe bao giờ. Vâng lời anh Bình mà hôm nay tôi hát. Dẫu có dở cũng là tấm lòng chân thành của tôi đối với các thương binh liệt sĩ. Giờ, anh Bình không cho hát nữa thì thôi, tôi xin xuống, mong bà con thông cảm”. Tiếng cười, tiếng vỗ tay lại nổi lên ầm ầm. Buổi gặp mặt cũng kết thúc. Sau chuyến đó, nhiều người phục bác Phó ra mặt. Thế mới biết con người lầm lỳ, cục mịch – “tẩm ngẩm mà đấm chết voi”. Rồi, một tuần lao động công ích của bác Phó cũng qua đi. Buổi chiều ấy về nhà, bác sai anh Nhân sửa soạn đồ nghề. Hôm sau trời còn mờ sương, hai thầy trò đã vội vã cơm đùm gạo bới, gồng gánh lên đường. Có lẽ bác sợ anh Bình thay đổi quyết định, phạt bác thêm một tuần nữa cũng nên. Chuyến ấy bác Phó đi biền biệt, đến cả nửa năm mới quay về. Bác về vào dịp giáp tết. Trên đường đi, bác sắm sẵn mọi thứ cho nồi bánh chưng. Năm đó cũng là năm được mùa, cả làng tôi náo nức chuẩn bị một cái tết tưng bừng. Những ngày giáp tết vui như hội. Cứ rảnh rỗi chúng tôi lại chạy về nhà bác Phó. Mới phải xa bác có nửa năm mà chúng tôi thấy dài đằng đẵng. Cái đêm nhà bác Phó luộc bánh chưng, chúng tôi kéo đến ngồi quanh bếp lửa nghe bác kể chuyện. Chuyện đông chuyện tây, chuyện nửa năm qua bác gặp những gì, rồi bác lại kể chuyện dưới ấy. “Xuống đó ta gặp ông lý Cường, vui lắm! Ông lý rủ ta đi ngao du thiên hạ”. Ông lý Cường ngày xưa là lý trưởng làng tôi. Ông chết từ lâu rồi. Người già làng tôi kể lại, ông lý bị toét mắt. Mắt lúc nào cũng ướt lèm nhèm. Cha ông lý cũng bị bệnh ấy. Ông nội ông lý cũng thế. Thằng Sâm, cháu nội ông, học cùng bọn tôi, mắt cũng lèm nhèm. Mà bố nó cũng vậy. Về sau, thằng Sâm được trạm y tế xã nhỏ thuốc, mắt nó lại bình thường như mọi người. Làng tôi ngày xưa ai cũng sợ ông lý Cường. Chỉ trừ bác Phó là nghênh ngang không coi ông ra gì. Hồi đó bác Phó còn trai trẻ. Bác vẫn gọi ông lý Cường là lý toét. Tất nhiên chỉ gọi sau lưng ông lý. Nhưng rồi cũng đến tai ông. Ông lý sai tay chân điệu cổ bác Phó đến nhà. Rồi nọc ra nện cho hai chục roi vì tội hỗn láo. Đánh xong, thấy bác Phó cứ nằm ỳ giữa sân, ông quát: “Ngồi dậy! Tao nện cho nữa bây giờ”. Bác vẫn nằm im. Ông lý sợ, lỡ bác Phó bị đánh quá tay ,có chuyện gì thì ông cũng chết. Ông đến lay bác Phó – “Dậy, dậy đi!” Bác Phó ngoảnh mặt cười – “Không đánh nữa à?”. “Thôi, tao tha, lần sau còn hỗn thì biết tay tao”. Bác lồm cồm bò dậy – “Cán ơn ông lý toét. Nhờ có ông mà hôm nay con đỡ đau bụng. Lạy ông lý toét con về!” Ông lý tức điếng người, song chẳng lẽ lại nọc bác Phó xuống đánh tiếp? “Ô! Ông lý dẫn ta vào tận Sài Gòn, Chợ Lớn chơi. Vào đó, ăn thịt cầy ở quán người Tàu, ngon tuyệt”. Bọn tôi cứ tròn xoe mắt – “Sài Gòn, Chợ Lớn ở đâu bác Phó?”. “Trong miền Nam ấy!”. “Nhưng mà, miền Nam có chiến tranh có thằng Mỹ mà?”. “Ở dưới đó không có chiến tranh, cũng chẳng có thằng Mỹ nào đánh ta cả”. Chuyện của bác Phó kể ly kỳ quá, cứ hút bọn tôi lại. Bọn tôi ngồi im lắng nghe không bỏ sót một câu. “Ông lý không thù bác nữa à?”. “Không, mọi hận thù đều vứt lại trên này. Ở dưới đó mọi người bình đẳng. Ông lý hẹn năm sau dẫn ta sang Trung Quốc chơi. Rồi có dịp sẽ sang Liên Xô. Chà chà! Khoái phải biết!”. Bọn tôi chẳng rõ thực hư ra sao, nhưng nghe bác Phó kể rành mạch quá, không thể không tin. Ở trên này làm sao bác biết được miền Nam với Sài Gòn, Chợ Lớn? “Nhưng mà, có ba ngày, sao bác đi nhiều thế?”. “Ba ngày trên này bằng mươi ngày dưới ấy, tha hồ mà đi”. Cuộc đời bác Phó kể cũng sướng. Một năm có 365 ngày, bác ở trần gian 362 ngày thêm 30 ngày ngao du dưới âm phủ. Chẳng có ai được như bác. Bác Phó làm rể làng Đông Thành. Đông Thành ở sát làng tôi. Chỉ cách một cánh đồng cỏ, nhưng bên ấy có nhiều tập tục khác với bên này. Con gái Đông Thành vừa khỏe vừa gấu, rất thích gây gổ đánh nhau với con trai làng tôi. Nghe nói khi xưa, vào những ngày xuân, Đông Thành vẫn mở những sới vật dành cho nữ. Các đô vật nữ cũng vật nhau huỳnh huỵch chẳng khác gì nam. Lâu dần, những trò chơi ấy cũng bị phôi pha. Ngày còn nhỏ, bọn tôi vẫn thường thả trâu ở đồng cỏ nằm giữa hai làng. Hôm đó mải tát cá mà bọn tôi quên chuyện chăn trâu. Có hai con trâu làng tôi sang ăn lúa của Đông Thành. Bọn con gái bên ấy tóm được trâu ăn lúa đem về. Chúng tôi sang đòi lại. Cãi qua cãi về, cuối cùng là đánh nhau. Bọn con gái Đông Thanh xông vào đánh “giáp lá cà”. Chúng cũng đấm đá, vật bọn tôi như con trai. Bọn chúng khỏe quá chúng tôi địch không nổi. Mà chúng còn đông hơn, nên đuổi bọn tôi chạy về tận đầu làng bên này. Sau đó chúng lùa hết trâu làng tôi về giam và nói phải đem lúa sang chuộc. Bọn tôi về tìm người lớn. Đến giữa làng thì gặp bác Phó. Đành cầu cứu bác Phó. Bác Phó là người rể quý của Đông Thành. Bác đóng cối cho bên ấy thường cho họ nợ đến mùa trả lúa. Hôm đó khi dẫn trâu về, bác dặn chúng tôi đừng để bị một lần nữa. Họ sẽ phạt rất nặng. Và đừng dại đánh nhau với con gái Đông Thành. Chúng khỏe như trâu ấy! “Dân Đông Thành đàn bà làm chồng, đàn ông làm vợ”. Đàn bà Đông Thành khỏe hơn đàn ông. Họ toàn đi cày. Còn đàn ông ở nhà làm vườn. Làng Đông Thành chỉ có một lối vào và một lối ra, nhưng vào giữa làng thì ngõ xóm chằng chịt. Nếu ai không thuộc đường sẽ phải quanh co mãi giữa làng mà chẳng ra được. Nghe nói ông tổ khai canh Đông Thành là một ông quan bất mãn triều đình. Ông rất giỏi binh pháp. Làng được xây dựng theo thế phòng thủ. Bác Phó bảo, ngày xưa bọn Tây rất sợ làng Đông Thành. Có một lần, một tiểu đội lính Tây vào bắt gà bắt lợn, dân làng cứ để yên cho chúng bắt. Chúng vác chiến lợi phẩm quanh co mãi giữa làng. Lúc đấy mới bị ăn đạn của du kích. Chúng la hét om sòm, xả súng bắn bừa mà chẳng trúng ai. Làng Đông Thành mỗi bụi tre, mỗi đụn rơm đều trở thành chiến lũy, từ người già đến trẻ em đều tham gia đánh giặc. Bọn Tây khiêng vác nhau chạy bừa, may mắn thế nào cũng ra được. Hôm sau chúng đem lính đến báo thù. Chúng cứ đứng đầu làng mà bắn vào. Bắn cho hết đạn thì về. Bác Phó gật gù – “Ở Việt Nam có vạn vạn ngôi làng không giống Đông Thành kiểu này thì giống kiểu khác. Có thế xưa kia ta mới đuổi được thằng Tàu, thằng Tây chứ! Mà, con gái Đông Thành có tinh nghịch cũng chưa thấm gì với gái Cầu Gỗ”. Theo bác Phó, làng quê Việt Nam mới nhìn qua thì ở đâu mà chẳng giống đâu, bởi ở đâu chẳng có những con đường ngoằn ngoèo, chẳng có bụi tre, bờ ao, có chum nước nơi góc sân. Nhưng, có ở lâu, có chịu khó tìm hiểu mới biết, mỗi đụn rơm, mỗi nếp nhà tranh, mỗi con đường làng, cả tiếng chó sủa đều tiềm tàng ẩn chứa những điều khác lạ, rất riêng biệt. Và cả sự linh thiêng cũng khác nhau. Hình như bác Phó có giác quan khác người, nên theo bác, tiếng gà gáy của mỗi làng đều có âm sắc riêng, nó phảng phất cốt cách của người dân làng ấy. Tài thật! Phân biệt được cả tiếng gà gáy của mỗi làng thì chỉ có mình bác Phó. Ngày xưa, bác Phó từng có lần về đóng cối ở cạnh làng Cầu Gỗ. Hồi đó bác đang còn là anh thợ phụ. Tỷ mẩn vừa làm việc vừa hóng chuyện, bác nghe nói, con gái Cầu Gỗ mười sáu, mười bảy tuổi mà đi tắm sông giữa ban ngày toàn tắm truồng. Cứ hơ hớ. Nếu nói hay hơn, người ta gọi là tắm tiên. Lạ quá! Bác Phó nghe mà cứ ngẩn ra. Nhưng chẳng dám hỏi lại. Bác im lặng suy ngẫm. Mấy ngày sau bác lân la tìm hiểu. Con gái Cầu Gỗ đi tắm sông bao giờ cũng đi một đoàn cả chục người. Tắm vào buổi sáng. Họ chọn một khúc sông vắng, rất ít người qua lại. Tắm chán, họ lại lên nằm phơi nắng trên bờ. Thảng hoặc có người đi qua, họ sẽ nhảy xuống sông mà lặn. Bác Phó đã tìm được khúc sông ấy. Sáng sớm, bác bỏ việc, chui vào một bụi rậm gần đó ngồi đợi. Quả nhiên mặt trời vừa lên nửa ngọn tre, một đoàn con gái kéo nhau tới. Họ cởi quần áo, nhảy xuống sông. Họ lặn ngụp. Té nước đùa giỡn. Đuổi nhau dưới sóng. Chỉ một lúc sau đã có người lên nằm phơi nắng. Bác Phó cứ căng mắt mà nhìn. Nhìn hau háu. Ngày đó bác là chàng trai mới hai mươi tuổi, chưa hề thấy thân thể con gái bao giờ. Điều ấy càng làm bác háo hức và hiếu kỳ. Chao ơi, những thân thể trắng ngần, nuột nà như những nàng tiên. Chỉ còn mấy nàng đang ngụp lặn. Hầu hết họ đã lên bờ. Có mấy nàng đuổi nhau. Người ngồi, người nằm trên cỏ. Các nàng cứ lên lên xuống xuống nơi bờ sông. Bác Phó hoa cả mắt. Nhưng mà, ngồi trong bụi này thì xa quá. Chẳng ăn thua gì. Bác chỉ được nhìn các nàng mờ mờ, lấp lóa trong ánh nắng. Từ đây đến đó chẳng còn cái bụi nào. Bác suy nghĩ cách tiếp cận. Chợt, nhìn thấy cái gậy tre vứt bên đường, bác nảy ra sáng kiến. Từ từ bò ra khỏi bụi, bác Phó cầm gậy chọc chọc xuống đất, dò dẫm từng bước tiến lên. Các nàng đã phát hiện có người đến. Họ nhảy hết xuống sông. Bác Phó đến tận nơi, đứng chọc chọc gậy – “Có ai đó, cho tôi hỏi đường với”. Các nàng vẫn bì bõm dưới nước, cười khúc khích. Bác Phó nhắc lại và vẫn giơ gậy chọc chọc, mò mẫm. Tiếng cười khúc khích dưới nước có vẻ to hơn. Họ đùn đẩy nhau – “Nói đi, nói đi mày, xem họ hỏi đường về đâu”. Bác Phó nhắc lại. Họ vẫn đùn đẩy nhau. Chợt bác Phó bước hụt vào cái hố, ngã chổng kềnh. Lồm cồm bò dậy, bác đưa tay mò mẫm tìm gậy. Mò mẫm mãi, mặc dù cái gậy ở ngay trước mặt. “Hình như người mù chúng mày ạ!”. “Đúng không”. “Đúng!”. “Phải không?”. Rõ ràng, không thấy họ đang mò mẫm tìm gậy à!”. Một nàng can đảm bước lên bờ. Rồi hai nàng. Đã là người mù thì sợ gì, họ kéo hết lên bờ. Họ cầm gậy đưa vào tay bác Phó. Bác cầm được gậy mừng rỡ lắm. “Anh này còn trẻ mà đã bị mù, tội thật”. “Anh ơi, đã có vợ chưa, có thích em không?”. Họ cầm tay bác Phó lay lay. “Anh có nhìn rõ em không? Em thích anh mà!”. “Suỵt, nhìn làm sao được. Đừng có trêu người mù, phải tội”. Bác Phó hỏi đường về ngay cái làng bác đang đóng cối. “Ô! Quay lại con đường anh vừa đi đấy thôi!”. Họ cầm tay bác Phó chỉ vẽ - “Còn xa lắm! Cứ ngược lại theo bờ sông sẽ có đường về làng. Gặp ai anh cứ hỏi”. Các nàng hồn nhiên đứng vây quanh bác Phó. Cố bình tĩnh mà môi bác cứ giật giật. Bác mở hé mắt nhìn. Những thân hình thiếu nữ trắng nõn lồ lộ giữa nắng sớm. Bác hé mắt thêm tý nữa. Toàn những thân hình nảy nở, căn tròn. Bác Phó run lập cập. Run lắm! Mắt bác nhấp nháy. Nhưng mà, cứ nhìn ty hý mắt thế này khó chịu quá. Rồi, chẳng đừng được, bác mở hẳn mắt ra. “Ơ kìa, người mù mở được mắt”. “Người mù mắt sáng rồi”. “Ơ… không phải…”. “Mù giả vờ đấy!”. “A, thằng này láo, thằng này láo!” – các nàng hét lên. Bác Phó vứt gậy, phá vòng vây tháo chạy. Song, chạy đâu cho thoát. Các nàng hậm hực đuổi theo – “Nện cho nó một trận”. Bác Phó hàng ngày ít chạy nhảy nên không nhanh bằng họ. Chỉ mấy chục bước chân họ đã đuổi kịp. Bác bị một nàng ngáng ngã, lăn mấy vòng trên cỏ. Cứ thế, các thân hình thiếu nữ còn loang loáng nước liên tiếp đổ ập lên người bác. Họ vật ngửa bác Phó ra. Người ngồi lên bụng, người ngồi lên ngực, người đè đầu, người giữ tay, hai người đè một chân, bác không còn cách gì cựa quậy nổi. Dẫu sức vóc cường tráng của anh phó cối tuổi hai mươi, cũng không thể địch lại hơn chục cô gái ở cái tuổi “bẻ gãy sừng trâu”, ngày nào cũng bơi lội. Họ trật quần bác Phó, lôi “của quý” của bác ra. Một nàng chạy đi hái lá dứa. “Nào, cậu em thích đi xuôi hay đi ngược, các chị cho đi”. “Cho nó đi ngược luôn!”. “Khoan, cho nói đi xuôi đã!” Bác Phó vẫn nằm im, chưa hiểu “xuôi ngược” của họ là gì. Họ cầm lá dứa kéo xuôi. Bác Phó la toáng lên. “Bé bé mồm đi cậu em. Giữ sức mà đi ngược”. Lá dứa được kéo ngược. Bác Phó đau đến tím tái mặt mày. Nhưng nào họ đã chịu buông tha. Cứ hai nàng cầm hai đầu lá dứa mà cò cưa kéo xẻ, hết xuôi lại ngược lên cái “của quý” của bác. Không còn chịu nổi, bác Phó la hét vang dội cả khúc sông. Đã bảo là khúc sông vắng, nên có hét to nữa cũng chẳng ai nghe mà đến cứu. Thôi thì làm được chịu được. Trót dại đành phải vậy thôi. Tiếng hét bác Phó cứ ằng ặc, rồi yếu dần, khản đặc. Sau này bác bảo, chỉ vì sự háo hức, tò mò, tinh nghịch; chỉ vì phút bồng bột của tuổi trẻ mà phải trả giá. Họ vẫn còn tiếp cò cưa kéo xẻ cho đến lúc giọng bác Phó tắc nghẹn, lịm đi, đau ngất. “Thôi nhé, cậu em cứ nằm đây mà nghỉ dưỡng sức”. “A… hay là xuống tắm với bọn chị cho vui”. “Này, lần sau còn thích nhìn bọn chị tắm thì cứ đến đây. Chịu khó đi xuôi đi ngược mấy vòng rồi tha hồ mà nhìn”. Họ lại nhảy ùm xuống sông tiếp tục đuổi nhau. Bác Phó nằm rên rỉ. Đau nhức. Phải cả giờ đồng hồ sau mới bò dậy nổi. Các nàng tiên quái quỷ đã “bay” hết. Bác nặng nhọc lê những bước chân ê hề. Rồi, còn nằm liệt cả tuần không làm nổi việc gì. Ngậm miệng vì xấu hổ, bác không thể than thở với ông phó Tấn. Nhiều năm sau, cứ nghe ai nhắc đến Cầu Gỗ bác lại rùng mình. Vừa sợ hãi, vừa thích thú. Bác bảo, có lần xuống dưới ấy bác gặp một cô gái Cầu Gỗ, bơi rất giỏi nhưng bị “chuột rút” mà chết đuối. Bác xấu hổ không dám kể với cô ta chuyện giả làm người mù của mình. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Bác Phó luôn tỏ ra mãn nguyện khi mỗi năm được gặp vợ một lần trong giấc mơ. Bác nói, ở dưới ấy đầm ấm lắm! Có lần bọn tôi bảo, sao bác không ở luôn với bác gái. “Ồ, chưa đâu, họ chưa cho. Đâu phải mình muốn là được. Phải tu luyện cho trọn kiếp người. Phải trả hết nợ đời thì mới được đi. Khi nào thằng Nhân một mình có thể đóng được cối cho thiên hạ, ta mới được phép xuống”. Những câu chuyện của bác Phó chẳng hiểu thực hư ra sao, nhưng dân làng tôi tin lắm. Bác trở thành cầu nối cho họ với người thân dưới ấy. Giấc ngủ triền miên của bác được mọi người ngóng đợi. Vẫn mỗi năm một lần nhưng chẳng cố định vào tháng nào. Bao giờ bác cũng linh cảm trước được ngày ấy để không ra khỏi nhà. Mỗi lần thức dậy sau giấc ngủ dài, bác lại có nhiều thông tin mới cho mọi người. Toàn những lời khuyên can tốt đẹp. Người nhận được lời khuyên như có thêm đức tin để sống. Dân làng tôi đối xử với nhau ngày càng độ lượng. Người ta cân nhắc, đắn đo trong mọi việc làm, chỉ sợ không vừa lòng với người thân dưới ấy. Trường hợp ông Quảng là một điển hình. Ông có đủ ruộng, vườn, ao thả cá nhưng ông chẳng chịu làm gì. Bà vợ của ông hình như lớn tuổi hơn ông nên trông già lắm. Ông Quảng sống bằng nghề cờ bạc. Làng tôi chẳng có ai đánh bạc với ông, nên ông phải đi chơi rất xa. Đã nhiều lần ông bị dân quân các xã khác bắt giam, nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Hồi đó, làng tôi chỉ có vài ba nhà khá giả mới có xe đạp. Riêng ông Quảng thì cứ đổi xe xoành xoạch. Xe ở nhà quê cũng chẳng cần phải đăng ký. Vừa mới thấy ông cưỡi chiếc Phượng Hoàng mới toanh, thì tuần sau lại thấy ông đi bộ. Rồi ít bữa nữa lại thấy ông ngồi trên chiếc Fa vo rit, mặt đầy mãn nguyện. Sau đó ông lại đi bộ. Có lần ông nằm bò trên chiếc xe thể thao Liên Xô phóng về làng. Cả làng ra xem vì thấy ngộ quá. Thanh niên trong làng hay đặt vè trêu ông. Thấy ông từ xa họ đã đồng thanh: “Ông Quảng mồm ống thổi chân xòe bàn cuốc, mắt toét nhèm hay liếc đa dâm”. Mắt ông Quảng không toét nhưng lúc nào cũng đỏ hoe. Có lẽ là hậu quả của những đêm dài trên chiếu bạc. Của cải với ông chỉ là tạm bợ. Có lần đi đánh bạc về ông gánh theo một đàn lợn con. Nhưng đàn lợn ở chưa quen chuồng thì đã có người đến xúc đi. Lần khác, ông dắt về con trâu rất đẹp. Song con trâu này cũng không được ở lâu nhà ông. Hôm đó, ông cưỡi chiếc Diaman bóng loáng, hí hửng phóng vo vo về làng. Bác Phó gọi ông lại. Ông tưởng bác gọi để khen chiếc xe nên càng hứng chí. “Này, thằng Căn nó tức ông lắm!” Ông Quảng mặt cứ nghệt ra chưa hiểu gì. Căn là người con độc nhất của ông. Anh bị đau ruột thừa, cấp cứu không kịp mà chết. “Nó bảo sao ông tệ thế, có được ít tiền dành dụm của mẹ nó, đã giấu dưới đáy bồ thóc, mà ông còn moi lên để đi đánh bạc”. Ông Quảng mặt mày tái nhợt, vã đầy mồ hôi, nói năng lập cập. Ông sợ lắm. Và ông tin quá đi chứ! Bởi việc ăn trộm tiền của ông, cho đến lúc ấy vợ ông còn chưa biết, thì làm sao người ngoài biết được. “Nó bảo ông mà không trả lại tiền cho mẹ nó, và còn cờ bạc, nó sẽ không bao giờ về ăn giỗ nữa, rồi ông cũng không yên với nó đâu”. Ngày hôm sau thấy ông Quảng bưng một mâm cơm, đến sì sụp khấn vái bên mộ con trai. Từ đó vĩnh viễn ông bỏ cờ bạc. Thế mới thần kỳ. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày ấy chúng tôi cứ lớn dần theo những câu chuyện của bác Phó. Nhờ bác mà chúng tôi hiểu biết thêm rất nhiều điều mới lạ. Năm 18 tuổi tôi trúng tuyển vào bộ đội. Cùng nhập ngũ với tôi còn có gần chục đứa bạn trong làng. Dân làng bịn rịn tiễn chúng tôi. Bác Phó và anh Nhân còn theo chân chúng tôi một đoạn khá xa. Anh Nhân không đi bộ đội được, vì chân anh hơi bị thọt, mà lại còn lãng tai. Bác Phó vỗ vai từng đứa khích lệ - “Làm trai thời loạn mà! Phải thế mới được. Ta già rồi, không ai cho ta đi nữa, chứ ta cũng muốn lắm. Thôi, cứ đi, hết giặc lại về”. Sau thời gian huấn luyện, trước khi vào Nam, tôi có được về thăm nhà mấy ngày. Về đến làng, tôi nghe nói bác Phó đi làm xa chưa về. Rồi tôi đi biền biệt. Giải phóng miền Nam, phải đến hai năm sau tôi mới được về phép. Về đến quê thì biết, bác Phó mới gồng gánh lên đường cách đó mấy ngày. Rồi tôi lại đi biền biệt. Về quê thêm một lần nữa, tôi hay tin bác Phó không còn. Dân làng vẫn đợi bác sau những giấc ngủ dài. Nhưng lần ấy bác ngủ luôn không dậy nữa, một sự ra đi nhẹ nhàng, chẳng phiền lụy ai. Làng tôi vĩnh viễn mất đi người sứ giả duy nhất với dưới ấy. Có lẽ bác đã tu luyện trọn một kiếp người, và đã trả hết nợ đời. Anh Nhân ngày xưa giờ đây đã là một thợ cối có tiếng tăm không kém gì bác Phó thuở trước. Người ta gọi anh là bác phó Nhân. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nắm hương đã gần tàn. Tôi cúi đầu chúc bác Phó ở dưới ấy năm nay ăn một cái tết vui vẻ. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sự điên rồ của Giôn Han[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Jack London[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Câu chuyện tôi kể ra đây là có thật, xảy ra tại trường đấu bò ở Kitô. Tôi ngồi trên khán đài với Giôn Han, Maria Valenxuêla và Lui Xécvalốt. Chúng tôi chứng kiến sự việc xảy ra đó từ đầu đến cuối. Tôi đi trên chuyến tàu du lịch mang tên Êcuađo từ Panama đến Goayakin, Maria Valenxuêla là chị họ tôi.Tôi biết chị ấy từ lâu. Chị ấy đẹp lắm. Tôi là người Tây Ban Nha - người Êcuađo thì đúng hơn, nhưng tôi lại là con cháu Peđrô Patinô, 1 trong những thuyền trưởng của Pixarô. Họ là những người dũng cảm. Họ là những anh hùng. Thế chẳng phải chính Pixarô đã dận 350 kỵ sĩ Tây Ban Nha và 4000 người da đỏ đến tận vùng Coócđilêrát xa xôi để tìm vàng sao? Và chẳng phải những con người đó đã chết trong cuộc thám hiểm vô ích đó sao? Vậy mà Pêđrô Patinô đã không chết. Chính ông ta đã sống sót và lập nên thế, nhưng tôi là người Tây Ban Nha. Tôi tên là Manuenđơ Giêxu Patinô. Tôi là chủ nhiều ấp trại, và hàng chục nghìn dân da đỏ là nô lệ của tôi, dù luật pháp có nói rằng họ là những người tự do làm việc theo hợp đồng tự do. Luật pháp là cái gì đến buồn cười. Những người Êcuađo chúng tôi khinh thường luật pháp. Đó là luật pháp của chúng tôi. Tự chúng tôi làm ra luật pháp. Tên tôi là Manuenđơ Giêxu Patinô. Hãy nhớ đến tên đó. 1 ngày nào cái tên đó sẽ được ghi vào sổ sách. ở Êcuađo có những cuộc cách mạng. Chúng tôi gọi đó là những cuộc tuyển cử. Nghe cũng hài hước đấy chứ? Có phải thế bạn gọi là chơi cho không nhỉ? Giôn Han là 1 người Mỹ. Lần đầu tiên tôi gặp anh ta ở khách sạn Tivôli ở Panama. Anh có rất nhiều tiền - mà điều này tôi cũng chỉ nghe đồn thôi. Anh đi Li-ma, nhưng lại gặp Maria Valenxuêla ở khách sạn Tivôli, Maria Valenxuêla là chị họ tôi và là 1 bà chị xinh đẹp. Đẹp thật đấy, đẹp nhất trong đám phụ nữ ở Êcuađo. Nhưng cũng là 1 phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này, dù đó là ở Pari, ở Mađơrít, ở New york hay ở Viên. Đi đâu đàn ông cũng phải ngắm nhìn chị, và Giôn Han đã ngắm chị ấy ở Panama. Anh ta yêu chị ấy, tôi biết chắc chắn là vậy. Đúng chị ấy là người Êcuađo nhưng cũng là người của mọi dân tộc, của toàn thế giới. Chị nói được nhiều thứ tiếng. ồ, mà chị hát thì chẳng khác gì nghệ sĩ. Nụ cười của chị ấy, sao mà kỳ diệu và tuyệt trần làm vậy. Đôi mắt của chị - Ôi! Đám đàn ông ngắm nhìn đôi mắt của chị mới đắm đuối làm sao! Đó là đôi mắt mà người Anh các bạn gọi là đôi mắt làm ta sững sờ. Đó là đôi mắt của chốn đào tiên. Giới nam nhi đắm mình trong đôi mắt của chị. Maria Valenxuêla giàu có, giàu hơn tôi, 1 người đã được coi là rất giàu ở Êcuađo rồi đấy. Nhưng Giôn Han không quan tâm đến tiền của chị tôi. Anh ta có 1 trái tim, mà lại là 1 trái tim khác người. Anh ta là 1 tên rồ. Anh ta đã không đi Lima, mà xuống làm ở Goayakin và theo chị ấy đến Kitô. Chị ta đang trên đường về nhà sau khi đi chơi Châu Âu và những nơi khác. Tôi không hiểu chị ấy tìm thấy gì. ở anh ta, nhưng chị ấy thích anh ta. Tôi biết rõ điều đó, nếu không, anh ta chẳng việc gì lại lẽo đẽo theo chị ấy đến Kitô. Chị ấy mới anh ta đến. Tôi nhớ lúc đó chị ấy nói: -Mời anh đến Kitô, tôi sẽ dẫn anh đi xem đấu bò, dũng cảm, thông minh, tuyệt vời lắm nhé. Nhưng anh ta nói: -Tôi lại đi Lima chứ không phải đi Kitô. Mục đích chuyến đi của tôi trên con tàu này là như vậy. -Anh đi chơi phải không? - Maria Valenxuêla nói, rồi chị nhìn anh ta đầy quyến rũ, chứa chan hứa hẹn. Thế là anh ta nhận lời. Không, không phải anh ta đến để xem đấu bò. Anh ta đến là vì những gì anh ta nhìn thấy trong đôi mắt của chị ấy. Đàn bà như chị Maria Valenxuêla là vô cùng hiếm, trăm năm nay mới có 1 người. Họ không thuộc riêng của dân tộc nào, họ vĩnh cửu. Họ là những người ta thường gọi là vũ trụ. Họ là những nữ thần, đấng nam nhi quỳ mọp dưới chân họ. Họ thao túng đàn ông và điều khiển đàn ông như những con rối. Nàng Cleopatra là 1 người phụ nữ như vậy, và cả mụ phù thuỷ Sơsi nữa. Mụ ta đã biến tất cả đàn ông thành lợn hết. A! Haha! Thế không phải à? Sự việc xảy ra đột ngột bởi vì Maria Valenxuêla lại nói: -Người Anh nhà các anh là... là gì nhỉ? Là dã man: có đúng không? Các anh đấu quyền Anh ăn giải. 2 người đàn ông đánh nhau, đấm vào mặt cho hoa cả mặt mày, mũi gẫy đi mới thôi. Thật gớm ghiếc! Còn người xem lại la ó ầm ĩ, sướng như điên. Thế không phải là man rợ sao? -Nhưng họ là con người - Giôn Han nói - và họ đấu ăn giải là vì họ muốn thế. Không ai bắt họ. Họ hành động như thế vì không có gì trên đời này họ thích bằng. Maria Valenxuêla mỉm cười khinh bỉ và nói: -Họ thường giết chết nhau, không phải thế sao? Tôi đọc thấy trên báo. -Thế còn con bò - Giôn Han nói - Con bò đã bị giết chết nhiều lần trong những cuộc đấu bò, mà con bò lại không muốn ra trường đấu chút nào. Làm như thế là không công bằng với con bò. Con bò buộc phải đấu. Trong khi đó con người trong đấu ăn giải lại không bị bắt buộc. -Tuy thế, người đấu quyền Anh tàn bạo hơn - Maria Valenxuêla nói - Anh ta dã man. Anh ta hoang dại. Anh ta là thú vật. Anh ta lấy vuốt của mình đánh chẳng khác gì con gấu ở trong hang, và anh ta dữ tợn. Những cuộc đấu bò - ôi! Chắc anh chưa bao giờ được xem đấu bò nhỉ? Người đấu bò thông minh. Anh ta phải có kỹ xảo. Anh ta hiện đại. Anh ta lãng mạn. Anh ta chỉ là con người, dịu dàng và dễ thương, vậy mà anh ta đứng ra đối chọi với con bò hung dữ. Rồi anh ta dùng thanh kiếm mảnh mai đâm 1 phát vào trái tim con vật to lớn và giết chết nó. Thật là vui mắt. Nó làm trái tim ngừng đập: con người nhỏ bé, con thú to lớn, mặt cắt rộng, hàng nghìn người hồi hộp theo dõi, con thú to lớn lao vào tấn công, con người nhỏ bé đứng yên như tượng; anh ta không động đậy, anh ta không sợ, và trong tay anh ta lưỡi kiếm mỏng manh vung lên lấp lánh ánh bạc trong ánh nắng: con thú có đôi sừng nhọn hoắt lao vào mỗi lúc 1 gần, con người đó vẫn đứng không nhúc nhích, thế rồi chiếc kiếm vung lên, đâm thẳng vào tim con thú ngập đến tận cán kiếm, con vật ngã quỵ xuống cái chết, còn con người không bị thương tích gì. Thật là dũng cảm. Thật là tuyệt vời! Ôi! Giá mà mình yêu người đấu bò nhỉ! Con người đấu quyền Anh tranh giải - anh ta tàn bạo, là con thú mang hình người, là người nguyên thuỷ ăn lông ở lỗ, là tên điên, để người ta đâm như máy vào bộ mặt ngu ngốc của mình mà còn vui sướng. Anh cứ đến Kitô đi, tôi sẽ dẫn đi xem môn thể thao dũng cảm, thể thao dành cho con người, cho người đấu bò và con bò. Nhưng Giôn Han đến Kitô đâu có phải là để xem đấu bò, mà là vì Maria Valenxuêla. Anh ta lực lưỡng, chân tay thô thiển hơn. Thật ra anh còn to lớn hơn cả những người thuộc dòng giống của anh ta. 2 con mắt của anh ta xanh, dẫu cho tôi thấy chúng màu xám, mà đôi lúc chúng lại lạnh ánh thép. Những nét trên khuôn mặt của anh ta cũng thô thiển, không duyên dáng như của chúng tôi, còn quai hàm của anh ta trông khoẻ. Hơn nữa, mặt anh ta lại cạo râu nhẵn thín như cha cố. Tại sao có người lại tự thấy hổ thẹn về bộ râu trên mặt mình? Thế không phải là Chúa đã dính nó vào đấy à? Đúng, tôi tin ở Chúa, ngài không phải thuộc loại tà giáo như nhiều người Anh. Chúa tốt lắm. Người đã làm nên tôi, 1 người Êcuađo có hàng vạn nô lệ. Vậy nên khi tôi chết, tôi sẽ đi theo Chúa. Đúng, các vị cha cố nói đúng. Nhưng Giôn Han thì sao? Anh ta là 1 người trầm tính. Anh ta lúc nào nói chuyện cũng hạ giọng, và không bao giờ nói chuyện mà lại vung tay vung chân cả. Chắc người ta sẽ nghĩ có lẽ trái tim anh ta là đá: vậy mà anh ta vẫn có chút nhiệt tình trong tim, vì anh ta đã theo Maria Valenxuêla đến Kitô. Mà anh ta nói thấp giọng, tay lại không vung vẩy, cho nên anh ta là súc vật, rõ ràng là 1 người vượn, 1 con thú đần độn, dữ tợn của thời xa xưa khoác cho mình lớp da hoang dại và sống trong hang hốc cùng với gấu và chó sói. Lui Xécvalốt là bạn tôi, người bạn tốt nhất trong những người Êcuađo. Anh ta là chủ 3 cái đồn điền cacao ở Naranhitoo và Chobô. ở Milagơrô còn có 1 đồn điền mía to của anh ta. Anh ta có những cái ấp lớn ở Ambatô và Latacunga, và xuôi dưới bờ biển anh ta có cổ phần ở những giếng đầu. Ngoài ra anh ta cũng tiêu ối tiền vào việc trồng cao su ở dọc theo sông Goayat. Anh ta hiện đại, giống người Mỹ; mà cũng giống người Mỹ, anh ta làm ăn buôn bán tất bật. Anh ta có nhiều tiền, nhưng cũng mang đi phung phí trong nhiều cuộc phiêu lưu, và lúc nào anh ta cũng cần nhiều tiền nữa để dành cho những cuộc phiêu lưu mới cũng như cho những cuộc phiêu lưu cũ. Anh ta có mặt ở khắp nơi và xem đủ mọi thứ. Khi anh ta còn rất trẻ, anh ta đã học ở học viện quân sự Mỹ mà ta gọi là Oetx Poanh. Có chuyện rắc rối. Anh ta bắt buộc phải từ chức. Anh ta không thích người Mỹ. Nhưng anh ta rất thích Maria Valenxuêla, người cùng 1 đất nước. Anh ta cũng cần tiền của chị ấy để có những cuộc phiêu lưu và cho mỏ vàng của anh ta ở động Êcuađo, nơi có người da đỏ vẽ mặt sống. Tôi là bạn anh ta. Chính tôi muốn anh ta lấy Maria Valenxuêla. Vả lại, 1 đồng tiền của tôi nằm trong những cuộc phiêu lưu của anh ta, mà ở trong mỏ vàng rất giàu có, nhưng thoạt tiên cần phải tiêu nhiều tiền trước khi nó sản sinh ra lãi. Nếu Lui Xécvalốt mà lấy Maria Valenxuêla chắc chắn tôi sẽ có nhiều tiền liền. Nhưng Giôn Han đã theo Maria Valenxuêla về Kitô và chúng tôi thấy rõ ngay - chúng tôi đây là Lui Xécvalốt và tôi - rằng chị ấy rất đỗi tử tế với anh ta. Người ta nói rằng phụ nữ muốn được sao hay vậy, nhưng trường hợp này lại không phải thế; vì Maria không đòi hỏi gì, ít nhất là đối với Giôn Han. Có thể câu chuyện đó vẫn xảy ra như thường, thậm chí Lui Xécvalốt và tôi không có mặt ở trường đấu bò ở Kitô ngày hôm ấy. Nhưng thực ra hôm ấy chúng tôi lại có mặt. Và đây tôi xin kể cho các bạn nghe về những gì đã xảy ra. Cả 4 chúng tôi ngồi 1 chỗ, vì chúng tôi là khách của Lui Xécvalốt. Chỗ đó gần ngay chỗ dành riêng cho Tổng thống. Phía bên kia là chỗ ngồi của tướng Hôxê Êlixêô Xalada. Cùng ngồi với ông ta có 2 vị tướng khác tên là Hoakin Emđara và Uaxixinô, rồi đến đại tá Haxintoo Phieroo và đại uý Bantaxađê Êchêvaria. Chỉ có Lui Xécvalốt mới có được địa vị của ảnh hưởng để kiếm được chỗ ngồi gầy ngay tổng thống. Tôi biết rõ là bản thân Tổng thống đã bày tỏ lòng mong muốn với viên quản lý rằng Lui Xécvalốt nên ngồi chỗ đó. Ban nhạc kết thúc bài quốc thiều Êcuađo. Đám rước của những người đấu bò đã xong. Tổng thống gật đầu cho phép bắt đầu. Tiếng tù và nổi lên, và con bò lao vút vào, cả trường đấu huyên náo, bàng hoàng, những mũi phi tiêu cắm trên vai con vật rực như lửa còn bản thân con thú tìm kiếm điên cuồng bất cứ kẻ thù nào để tiêu diệt. Những người đấu bò ẩn ở phía sau những chỗ nấp và đợi. Đột nhiên có 5 người đấu bò xuất hiện từ phía, tay vung những chiếc áo choàng sặc sỡ. Con bò dừng lại khi nhìn thấy sự hào hiệp của kẻ thù, lưỡng lự không biết nên tấn công người nào. Rồi 1 người đấu bò tiến lên 1 mình để đến con bò. Con thú rất tức giận. 2 chân trức của nó bới cát bụi mù. Rồi nó lao vào tấn công. Đầu cúi thấp xuống bục thẳng vào độc 1 người đấu bò đó. Lần tấn công đầu tiên của con bò luôn là 1 điều thú vị. Sau đó 1 lúc, tất nhiên là mọi người phải thấy chán, 1 trò chơi nhỏ mọn nên sự hứng thú cũng biến dần. Những cái lúc đầu tiên của con bò mới lý thú làm sao! Giôn Han mới xem lần đầu, nên cũng không tránh khỏi sự hồi hộp đó, cảnh 1 người tay cầm chỉ độc có 1 mảnh vải, còn con bò có 2 cái sừng nhọn hoắt giương ra qua bãi cát hút vào anh ta. -Xem kìa! - Maria Valenxuêla kêu lên - Có tuyệt vời không chứ kia? Giôn Han gật đầu, nhưng không nhìn vào chị ấy. 2 mắt anh ta long lên, nhìn chăm chú vào cuộc đấu bò. Người đấu bò bước sang bên, rồi xoay cái áo choàng để tránh con bò và trải rộng cái áo lên vai mình. -Theo ý anh thế nào? - Maria Valenxuêla hỏi - Thế không phải, theo anh gọi, là hành động thể thao chăng? -1 việc làm rất thể thao - Giôn Han nói - Thật là thông minh. Chị ấy vỗ tay reo mừng. 2 bàn tay bé nhỏ. Khán giả hoan hô. Con bò quay lại và người đấu bò lại tránh, tung chiếc áo choàng lên vai, và khán giả lại hoan hô. Trò đó diễn ra 3 lần. Người đấu bò thật là tài giỏi. Sau đó, anh ta lui vào, 1 người đấu bò khác lại ra đấu tiếp với con bò. Tiếp theo đó, họ cắm những ngọn thương có gắn cờ vào 2 vai, vào 2 bên xương sống con bò, cứ 2 cái 1 lần, rồi Oócđênét bước ra - người đấu bò chính, tay cầm lưỡi kiếm dài và khoác chiếc áo màu đỏ. Những tiếng tù và rú lên báo hiệu giờ tận số của con bò. Anh ta đấu không được giỏi như Matextini. Song vẫn tốt chán. Bằng 1 lưỡi kiếm đâm thẳng vào tim con vật, và con bò quỵ hẳn xuống nằm lăn ra chết liền. Đó là 1 mũi kiếm đẹp, dứt khoát và gọn. Tiếp đến là những tiếng hoan hô vang lừng, khán giả bình dân ném cả mũ xuống trường đấu. Maria Valenxuêla cùng những người khác vỗ tay, còn Giôn Han, với trái tim lạnh giá nên không xúc động trước sự việc đó, đã nhìn chị ấy 1 cách tò mò. -Chị thích lắm à? - anh ta hỏi. -Lúc nào cũng thích - Chị ấy nói, lại vỗ tay tiếp. - Ngay từ khi còn bé cơ - Lui Xécvalốt nói - Tôi nhớ hôm đầu tiên cô ấy đi xem đấu bò. Lúc ấy mới có 4 tuổi. Cô ấy ngồi cạnh mẹ, và cũng giống như bây giờ, cô ấy vỗ tay. Cô ấy đúng là 1 phụ nữ Tây Ban Nha chính cống. -Anh đã được xem đấu bò rồi nhé - Maria Valenxuêla nói với Giôn Han khi họ đang buộc những con la vào con bò chết đó và kéo ra ngoài - Anh đã nhìn thấy đấu bò và anh thích chứ? Anh có ý kiến gì không? -Tôi thiết nghĩ con bò tiến thoái lưỡng nan - anh ta nói - Ngay từ đầu đã thấy nó sẽ bị tiêu diệt. Vấn đề quá rõ ràng. Mọi người đều biết trước khi con bò bước vào trường đấu, số phận của nó đã được định đoạt. Theo tinh thần thể thao, người ta sẽ đặt vấn đề nghi vấn. 1 con bò chưa đấu với 1 người nào lại phải ra đấu với 5 người đã được đấu với nhiều con bò. Hoạ chăng còn có đôi chút công bằng nếu để cho 1 người 1 bò đấu với nhau. -Hoặc là 1 người đấu với 5 con bò - Maria Valenxuêla nói và chúng tôi phá lên cười. Lui Xécvalốt là người cười to nhất. -Đúng thế - Giôn Han nói - Phải đấu 5 con bò mà phải là người, cũng như con bò, chẳng bao giờ vào trường đấu ấy, một người như ông chẳng hạn, ông Xécvalốt ạ. -Nhưng người Tây Ban Nha chúng tôi lại thích đấu bò - Lui Xécvalốt nói.Và tôi dám chắc anh ta đã nhận được lời gợi ý bí mật mà tôi sẽ kể sau. -Vậy đó chắc phải là 1 thú vui có văn hoá? - Giôn Han trả lời - Chúng tôi hàng ngày giết hàng nghìn con bò ở Chicagô, song có ai rỗi hơi mà vào xem đâu. -Đó lá sát sinh - tôi nói - Nhưng đây là... là 1 nghệ thuật. Nó tinh tế. Nó đẹp, nó hiếm lắm. -Không phải luôn luôn thế - Lui Xécvalốt nói - Tôi cũng đã xem nhiều người đấu bò vụng về và như vậy đâu có đẹp. Anh ta rùng mình, và bộ mặt anh ta thể hiện cái mà ta thường gọi là sự ghê tởm, còn tôi, biết điều thầm kín về anh ta, bắt đầu đóng vai của mình. -Ông Han đây có lẽ đúng - Lui Xécvalốt nói - Như thế là không công bằng với con bò. Phải chăng chúng ta đây không biết rằng con bò đã không được uống nước trong 24 tiếng đồng hồ và chỉ trước khi trận đấu bắt đầu, nó mới được uống no nê nước sao? -Vậy là nó bước vào trường đấu bụng đầy nước - Giôn Han nói nhanh và tôi thấy mắt anh ta xám ngoét lại, sắc như dao và lạnh lùng. -Điều đó rất cần đối với thể thao - Lui Xécvalốt nói - Thế ông muốn con bò rất khoẻ để nó giết chết 5 người đấu bò kia chăng? -Tôi muốn là nó có 1 cơ hội để đánh lại - Giôn Han nói, quay mặt về phía trường đấu nhìn con bò thứ 2 bước vào. Con bò này không được tốt giống lắm. Nó sợ sệt. Nó chạy quanh trường đấu tìm lối thoát thân. Những người đấu bò tiến lên và vung chiếc áo choàng, nhưng con vật không lao vào. -1 con bò ngu xuẩn - Maria Valenxuêla nói. -Tôi xin lỗi chị - Giôn Han nói - Nhưng tôi thấy đó chính là con bò khôn ngoan. Nó biết là không thể đấu lại với người được. Chị thấy không! Nó đã đánh hơi thấy cái chết trong trường đấu đấy. Đúng vậy. Con bò dừng lại chỗ con bò trước nằm chết, hít hí chỗ cát ướt và khịt khịt mũi. Nó lại vùng bỏ chạy nhanh, đầu ngửng lên, nhìn vào hàng nghìn con người đang la ó nó, quẳng vỏ cam vào nó và cất tiếng chửi nó. Nhưng ngửi thấy mùi máu, nó quyết định lao vào tấn công người đấu bò, làm cho người đó không kịp tránh. Anh ta vứt bỏ cái áo choàng và chạy vào chỗ ẩn. Con bò lao xầm vào bức tường của trường đấu. Và Giôn Han nói, giọng bình thản tựa như anh ta nói với bản thân mình: -Tôi sẽ đóng góp 1000 đồng sucơ giúp trại hủi của thành phố Kitô nếu hôm nay con bò nào giết được 1 người. -Anh thích bò à? - Maria Valenxuêla mỉm cười hỏi. -Tôi không thích những người như vậy - Giôn Han nói - 1 người đấu bò không phải là 1 người dũng cảm. Dứt khoát không phải là 1 người dũng cảm. Chị xem kìa, lưỡi con bò đã thè cả ra rồi. Nó mệt lắm vậy mà chưa bắt đầu đấu. -Nó khát nước - Lui Xécvalốt nói. -Đúng là nó khát - Giôn Han nói - Thế mang cắt gân nó đi trước khi nó tiếp tục có an toàn hơn không? Maria Valenxuêla nổi nóng trước lời nói miệt thị đó của Giôn Han. Nhưng Lui Xécvalốt mỉm cười, chỉ để tôi nhìn thấy, và trong óc tôi đã hình dung ra cái trò mà anh ta đang chơi. Anh ta và tôi sẽ là những ngọn thương. Con bò Mỹ to bự kia đang ngồi cùng với chúng tôi. Chúng tôi chỉ việc chích những ngọn giáo đó vào anh ta là anh ta nổi nóng ngay, và thế là sẽ không thể có việc cưới xin với Maria Valenxuêla. Đó là 1 trò thể thao hay. Mà tinh thần đấu bò đã ăn sâu vào máu thịt chúng tôi. Con bò lúc này đã sôi máu lên rồi. Những người đấu bò càng chọc tức con vật. Nó nhanh hơn, và đôi lúc quay ngoắt lại khiến cho 2 chân sau vấp loạng choạng và cái hông của nó cầy trên cát. Song nó chỉ húc vào những chiếc áo choàng được tung ra nên chẳng gây thiệt hại gì. -Thật vô ích - Giôn Han nói - Nó đang đánh không khí kìa! -Nó tưởng cái áo choàng là kẻ thù của nò - Maria Valenxuêla giải thích - Anh hãy trông xem, người đấu bò thông minh chưa kìa, anh ta đánh lừa con bò giỏi quá! -Bản chất của loài bò sinh ra là để bị lừa - Giôn Han nói - Đánh gió thế kia làm gì không bị giết. Những người đấu bò biết điều đó, khán giả biết điều đó. Chị biết điều đó, tôi biết điều đó, tất cả chúng ta ngay từ đầu đều biết rằng nó sẽ đánh nhau với gió thôi. Chỉ có con vật là không biết điều đó. Bản chất của loài vật là ngu si đần độn như thế. Nó không có cơ hội nào khác. -Điều đó rất đơn giản - Lui Xécvalốt trả lời - Khi tấn công, con bò lại nhắm mắt. Vì vậy... -Người đấu bò tránh sang 1 bên và con vật lao trượt - Giôn Han ngắt lời. -Đúng thế - Lui Xécvalốt nói - Đúng vậy. Con vật nhắm mắt lại và người đấu bò biết điều đó. -Nhưng những con bò cái lại không nhắm mắt - Giôn Han nói - Tôi biết con bò ở quê, loại bò sữa giống Giơ-đi, làm cho cả bọn chạy toán loạn. -Nhưng những người đấu bò không đấu với những con bò cái - Tôi nói. -Họ sợ đấu với bò cái - Giôn Han nói. -Đúng! - Lui Xécvalốt nói - Họ sợ đấu với bò cái. Giết chết những người đấu bò thì đâu còn gọi là thể thao nữa! -Nhưng nếu thỉnh thoảng có 1 người đấu bò chết thì mới gọi là thể thao được - Giôn Han nói - Khi tôi trở về già, và có thể còn bị tàn tật nữa, mà vẫn phải kiếm ăn trong khi không có khả năng làm việc nặng nhọc, lúc đó tôi sẽ trở thành 1 người đấu bò. Đó là 1 công việc nhẹ nhàng dành cho các nhà quý phái lớn tuổi và những người đã về hưu. -Trông kìa! - Maria Valenxuêla nói khi con bò lao dũng mãnh, làm người đấu bò phải vung cái áo choàng để tránh - Cần phải khéo léo mới tránh nổi con vật chứ! -Đúng thế - Giôn Han nói - Nhưng tôi nghĩ rằng phải cần nghìn lần khôn khéo hơn thế để tránh những cú đấm liên tiếp và nhanh của võ sĩ quyền Anh có đôi mắt mở to và đánh những cú đánh thông minh. Hơn nữa, con bò không muốn đấu. Xem kìa, nó bỏ chạy kìa! -Con bò đó không tốt, vì nó bỏ chạy quanh trường đấu, tìm đường thoát ra ngoài. -Tuy thế, những con bò này đôi lúc cũng vô cùng nguy hiểm - Lui Xécvalốt nói - Không ai có thể biết trước được nó sẽ có những hành động gì tiếp theo. Chúng rất khôn ngoan. Chúng chỉ giống bò cái có 1 nửa. Những người đấu bò không ưa gì chúng. Xem kìa! Nó quay lại kìa! 1 lần nữa, bị lạc hướng và tức giận trước việc bức tường chắn không cho nó thoát ra, con bò liền tấn công kẻ thù của mình 1 cách dũng cảm. -Lưỡi con thú thè ra kìa - Giôn Han nói - Trước hết, họ cho nó uống nước no nê. Sau đó vần cho nó mệt nhoài ra, hết người này tiếp đến người khác, dử nó đấu với không khí. Khi 1 vài người làm cho nó mệt, những người kia ngồi nghỉ, nhưng con vật không được nghỉ 1 giây nào. Sau đó, khi không còn sức và nhanh nhẹn nữa, người đấu bò chính đâm nhát gươm vào nó. Đã đến lúc đâm những ngọn thương vào. 1 người cố sức đâm những ngọn thương vào đúng chỗ hiểm 3 lần liền, nhưng cả 3 lần đều đâm trượt. Làm như thế chỉ gây thêm bực tức và khiến nó điên lên. Như ta biết mỗi lần phải đâm 2 ngọn thương vào vai, rồi vào 2 bên xương sống và sát ngay đó. Nếu chỉ đâm trúng 1 chỗ thôi thì vẫn không ăn thua. Đám người ngồi xem hò hét và gọi Oócđônét. Rồi Oócđônét làm nên chuyện vĩ đại. 4 lần anh ta đứng ra, và cả 3 lần chỉ cần lần đầu thực hiện việc đâm đã trúng ngay, làm ngọn thương đâm đúng chỗ không trượt ngọn nào, trên lưng con vật đeo tám ngọn thương chụm vào 1 chốc. Cả đám người điên cuồng reo hò, rồi 1 trận mưa mũ và tiền rơi lả tả xuống bãi cát của trường đấu. Nhưng ngay lúc đó, con bò bất ngờ tấn công 1 người đấu bò. Người đó trượt chân ngã và sợ cuống cuồng. Con bò đâm trúng anh ta, nhưng cũng may anh lại lọt vào 2 cái sừng rộng. Trong lúc khán giả nín thở và im lặng theo dõi, thì Giôn Han đứng dậy và hét lên vui sướng. Mọi ngươi chúng tôi im phăng phắc, chỉ riêng anh ta hò hét, mà lại hò hét ủng hộ con bò. Ta thấy ngay là anh ta muốn người đó bị giết chết. Trái tim anh ta thật tàn bạo. Cử chỉ xấu xa này làm mọi người ngồi chỗ tướng Xaulađa phẫn nộ, sau đó họ la ó phản đối. Còn Uxixinô Caxtilô thì bảo thẳng vào mặt anh ta rằng anh ta là giống chó lai và những thứ xấu khác. Những câu chửi đó bằng tiếng Tây Ban Nha nên Giôn Han không hiểu gì. Anh ta vẫn đứng và hò hét, có lẽ đến 10 giây, và con vật bị nhử sang tấn công những người đấu bò khác, do đó người kia đứng dậy được. -Thế là con vật lại bỏ lỡ dịp - Giôn Han buồn bực nói khi anh ta ngồi xuống - Anh ta lại không bị thương tích. Họ dử cho con vật bỏ anh ta - Sau đó anh ta quay sang Maria Valenxuêla nói - Tôi xin lỗi. Tôi hứng quá. Chị ấy mỉm cười rồi lấy cái quạt đánh khẽ vào cánh tay như quở trách: -Lần đầu anh xem đấu bò mà - chị ấy kêu lên - Càng xem anh sẽ càng không muốn con người chết. Người Mỹ các anh tàn bạo hơn chúng tôi. Chính đó là vì các anh đấu quyền anh ăn tiền. Chúng tôi chỉ đến xem bò chết thôi! -Nhưng tôi muốn con bò có 1 dịp nào đó - anh ta trả lời - Rõ ràng đúng lúc ấy tôi sẽ thôi không khó chịu trước những người lợi dụng con bò. Tiếng tù và rú lên báo hiệu đến giờ con bò bị hạ thủ. Oócđônét đứng dậy, tay giơ kiếm và tấm vải đỏ. Nhưng con vật lại thay đổi và không muốn đấu nữa. Oócđônét giậm chân trên cát và hét lên, rồi vung tấm vải đỏ. Con bò lao vào nhưng không còn lòng nào mà chiến đấu. Lần tấn công đó không có trọng lượng, rất yếu ớt. Lưỡi kiếm cắm ngập vào tận xương và cong lại. Oócđônét lấy lưỡi kiếm khác. Con bò lại nổi máu tấn công lần nữa. 5 lần Oócđônét tấn công và lần nào kiếm cũng cắm, nhưng chỉ cắm có 1 nửa, hay cắm sâu vào tận xương. Lần thứ 6, lưỡi kiếm cắm ngập tận cán. Nhưng lần đâm đó lại không trúng đích, vì đâm trượt tim, xuyên qua xương sườn thò cả mũi kiếm sang sườn bên kia. Khán giả la ó người đấu bò. Tôi liếc nhìn Giôn Han. Anh ta ngồi im lặng, không nhúc nhích. Tôi có thể nhìn thấy anh ta nghiến răng, 2 bàn tay nắm chặt vào thành lan can chỗ ngồi. Cuộc đấu bò lúc này đã kết thúc. Con bò bị đâm thương nặng vẫn lê lặc lè vì lưỡi kiếm đâm xuyên qua người nó. Nó bỏ chạy vòng quanh trường đấu, ngước nhìn biết bao bộ mặt. -ý nó nói: "Lạy chúa cho tôi ra khỏi đây, tôi không muốn đấu nữa" - Giôn Han nói. Thế là hết. Anh ta không nói gì nữa, mà chỉ ngồi nhìn mặc dù đôi lúc có ngoảnh nhìn Maria Valenxuêla xem chị ấy thưởng thức ra sao. Chị ấy rất bực với người đấu bò. Anh ta vụng về, mà chị ấy lại muốn được xem 1 cuộc biểu diễn thông minh. Lúc này con bò rất mệt, và quỵ dần vì mất nhiều máu, nhưng vẫn còn lâu mới chết. Nó bước chậm chạp vòng quanh trường đấu, tìm lối ra. Nó không lao vào tấn công. Đối với nó, thế là đủ lắm rồi. Nhưng người ta phải giết chết nó. Có 1 chỗ ở cổ con bò, phía sau đó là nó chết liền. Oócđônét bước lên phía trước nó và hạ thấp tấm vải đỏ xuống sát đất. Con vật không lao vào. Nó đứng nguyên và hí vào tấm vải, hạ thấp hẳn đầu xuống. Con bò quay đầu lên, và thế là đâm bị trượt. Rồi nó nhìn cái kiếm. Khi Oócđônét di chuyển cái khăn trên đất, con bò quên cái kiếm và lại cúi đầu xuống ngửi cái khăn. Oócđônét lại đâm, và anh ta lại đâm trượt. Anh ta đâm nhiều lần. Thật là 1 hành động ngu xuẩn. Giôn Han không nói gì. Cuối cùng cũng đâm trúng và con bò ngã lăn ra bãi cát, chết ngay, rồi những con la vội được đưa vào để kéo nó ra. -Những người nước nói đây là 1 môn thể thao tàn bạo chứ gì? - Lui Xécvalốt nói - Rằng như vậy là không nhân dậo. Rằng như vậy là không tốt đối với con bò, chứ gì? -Không - Giôn Han nói - Đối với con bò thì không quan trọng lắm. Những kẻ ngồi xem mới khốn nạn, những kẻ như thế thật là hèn hạ. Nó dạy họ tìm nguồn vui trong cái đau đớn của loài vật. 5 kẻ đấu bò thật là hèn hạ, lại đi đấu với 1 con bò ngu si. Vì vậy, những kẻ đứng xem cũng để học trở thành những kẻ hèn hạ đó. Con bò chết, nhưng những kẻ ngồi xem thì vẫn sống và học được 1 bài học. Maria Valenxuêla không nói 1 lời. Chị cũng không nhìn anh ta. Nhưng chị nghe hết những gì anh ta nói và 2 má chị giận tái mét. Chị ấy nhìn suốt trường đấu và lấy tay quạt, nhưng tôi biết 2 bàn tay chị ấy run lên, Giôn Han cũng không nhìn chị ấy. Anh ta nói tiếp, coi như không có chị ấy ở đó. Cả anh ta cũng tức giận, sôi máu lên. -Đó là môn thể thao hèn hạ của 1 loại người hèn hạ - anh ta nói. -à - Lui Xécvalốt nói khẽ - anh cho là anh hiểu chúng tôi? -Giờ đây tôi hiểu toà án Dị Giáo Tây Ban Nha - Giôn Han - Chắc nó phải lý thú hơn đấu bò. Lui Xécvalốt mỉm cười không nói gì. Anh ta liếc nhìn Maria Valenxuêla và biết rằng cuộc đấu bò ở chỗ họ ngồi đã thắng. Từ lúc ấy chẳng bao giờ chị ấy đáp lời tên người nước ngoài nói những điều như vậy. Nhưng cả tôi và Lui Xécvalốt đều không ai ngờ đến kết quả của ngày hôm đó. Tôi sợ rằng mình không hiểu hết những người nước ngoài. Làm thế nào chúng tôi có thể biết được Giôn Han, từ 1 người tức giận 1 cách dữ tợn như vậy lại đột nhiên điên được? Nhưng như chúng ta sẽ biết, anh ta đã điên. Anh ta tự nhủ rằng con bò đối với anh ta không quan trọng gì lắm. Vậy tại sao con ngựa lại quan trọng làm vậy? Như thế tôi không thể nào hiểu nổi. Đầu óc của Giôn Han thiếu logic. Đó là lời giải thích duy nhất. -ở Kitô đưa ngựa vào trường đấu bò là chuyện không phải thường xuyên. - Lui Xécvalốt nói nhìn lên bảng chương trình - ở Tây Ban Nha, vấn đề này là phổ biến. Còn ở Kitô, hôm nay do được phép đặc biệt, chúng tôi mới có ngựa đấu trong trường đấu. Sau đây là cuộc đấu giữa bò và ngựa cùng người đấu bò. Những người vác thương và cưỡi ngựa ấy mà. -Con bò sẽ bị giết trước tiên - Giôn Han nói - Thế những con ngựa sau đó cũng bị chết như vậy chứ? -Người ta bịt mắt những con ngựa để chúng không nhìn thấy những con bò - Lui Xécvalốt nói - Tôi đã chứng kiến nhiều con ngựa bị giết chết. Cảnh tượng thật là ghê gớm. -Tôi đã nhìn thấy người ta giết bò - Giôn Han nói - Bây giờ tôi lại chứng kiến cảnh ngựa bị giết chết để tôi may ra có thể hiểu 1 cách đầy đủ hơn những điểm cao đẹp của môn thể thao này. -Đó là những con ngựa già - Lui Xécvalốt nói - Không còn dùng được vào việc gì nữa. -Ra vậy - Giôn Han nói. Con bò thứ 3 tiến vào, và trong nháy mắt cả 2 người đấu bò xông ra, 1 người đứng ngay ở dưới chỗ chúng tôi ngồi. Anh ta cưỡi 1 con ngựa gầy và già, đúng thế, trông trơ xương và ghẻ lở. -Thật là tuyệt vời cho con ngựa đáng thương kia, lại có thể chịu được gánh nặng của con người cưỡi nó - Giôn Han nói - Bây giờ con ngựa đấu với con bò, dùng loại vũ khí gì? -Con ngựa không đấu với con bò đâu - Lui Xécvalốt nói. -ồ - Giôn Han nói - Vậy con ngựa chỉ dùng để cho con bò nó húc? Vì thế mà nó bị bịt mắt để không nhìn thấy con bò xông lại húc nó. -Hoàn toàn không phải thế - tôi nói - Ngọn thương của người đấu bò dùng để ngăn không cho con bò húc con ngựa. -Thế ra cũng hiếm khi ngựa bị bò húc? - Giôn Han hỏi. -Không đúng - Lui Xécvalốt nói - ở Xôvin tôi chứng kiến có 18 con bò bị giết chết trong 1 ngày, và khán giả còn hò hét cho thêm ngựa nữa vào đấu. -Thế chúng cũng bị bịt mắt như con ngựa này chứ? - Giôn Han hỏi. -Đúng - Lui Xécvalốt trả lời. Sau đó, chúng tôi không nói chuyện nữa, mà chăm chú theo dõi cuộc đấu. Giôn Han luôn luôn tỏ ra điên đầu, nhưng chúng tôi không hiểu nguyên nhân tại sao vậy. Con bò lùi bước không tấn công con ngựa. Còn ngựa thì đứng lì ra, mà cũng do nó không nhìn thấy người đấu bò đang kích động cho con bò tấn công nó. Những người đấu bò trêu con bò bằng cách vung chiếc áo choàng lên, và khi con bò tấn công, họ chạy về phía con ngựa rồi về chỗ ẩn của mình. Cuối cùng, con bò nổi nóng, rồi nhìn thấy con ngựa đứng trước mặt mình. -Con ngựa không biết, con ngựa không biết - Giôn Han thì thầm 1 mình, không hay rằng anh ta đã bày tỏ ý nghĩ của mình quá to. Con bò lao vào tấn công, và dĩ nhiên con ngựa chẳng hay biết tí gì cho đến khi người đấu bò thua và cả 2 cái sừng bò cắm phập vào bụng con ngựa. Con bò khoẻ kỳ lạ. Nhìn cảnh con vật biểu diễn sức mạnh thì thật tuyệt vời. Nó nhấc bổng con ngựa lên trên không, rồi khi nó hạ xuống đất ngay bên người nó, người đấu bò nhảy vội xuống chạy thoát thân, trong lúc đó những người đấu bò khác dử cho con bò đi chỗ khác. Những bộ phận chính trong người con ngựa đã ngừng hoạt động, nhưng nó vẫn vùng dậy kêu rống lên. Tiếng kêu đó chính là tiếng kêu của loài ngựa, nó làm cho Giôn Han hoàn toàn điên lên. Anh ta cũng đứng dậy. Tôi nghe thấy anh ta khẽ nguyền rủa. Mắt anh ta dán vào con ngựa đang rống ầm ĩ, cố vùng chạy nhưng nó lại ngã quỵ xuống ngay, lăn ngửa người và chổng 4 vó lên trời, vùng vẫy loạn xạ. Con bò lại lao vào và húc đi húc lại cho đến lúc con ngựa chết hẳn. Giôn Han lúc này đứng dậy. Mắt anh ta không lạnh như thép nữa, mà bùng lên ngọn lửa xanh. Anh ta nhìn vào Maria Valenxuêla, chị ấy nhìn anh ta, và trên khuôn mặt anh ta hiện lên sự ghê tởm. Con người anh ta lúc này trở nên điên loạn. Con ngựa lúc này đã chết: mọi người nhìn, mà anh ta lại to lớn. Nên trông càng rõ. -Ngồi xuống đi! - Lui Xécvalốt nói - kẻo trông anh lố bịch lắm đấy. Giôn Han không đáp lại. Anh ta vung nắm đấm ra đánh thẳng vào mặt Lui Xécvalốt, khiến anh ngã lăn quay ra ghế và không đứng dậy nổi. Anh không còn nhìn thấy gì nữa. Nhưng tôi chứng kiến hết mọi chuyện Uxixinô Caxtilô ngồi ở chỗ bên cạnh ngả người ra lấy cái gậy giáng thẳng vào mặt Giôn Han. Giôn Han đấm anh ngã dũi vào tướng Xalađa, khiến ông ta cũng lăn kềnh ra. Ta gọi cơn giận lôi đình của Giôn Han lúc này là cơn giận Trương Phi chứ còn gì nữa? Con người dã thú của anh ta bung ra và gầm rú con người dã thú ăn lông ở lỗ từ ngàn xưa. -Mi đến xem đấu bò - tôi nghe thấy anh ta nói như thế - Thề có Chúa, ta sẽ cho mi biết thế nào là trận đấu người. Thế là đánh nhau. Lính gác chỗ Tổng thống ngồi nhẩy vội lại, nhưng anh ta vớ được khẩu súng của 1 người lính, vung lên phang vào đầu họ. Từ chỗ khác, đại tạ Haxintô Phiêrô giơ súng lục bắn anh ta. Phát súng đầu tiên bắt chết 1 người lính. Tôi chứng kiến đúng như vậy. Nhưng phát súng thứ 2 bắn đúng sườn Giôn Han. Anh ta cất tiếng chửi rồi lao mạnh lưỡi lê đâm vào mình đại tá Haxintô Phiêrô. Trông thấy mà cứ rùng cả mình. Người Mỹ và người Anh là giống người dã man. Họ khinh miệt trò chơi đấu bò của chúng tôi, vậy mà họ lại vui sướng trước cảnh máu chảy. Hôm đó nhiều người bị giết vì Giôn Han, con số cao nhất chưa từng thấy trong lịch sử đấu bò ở Kitô, mà đúng ra của Goayakin và cả nước Êcuađo. Đó là tiếng kêu rống của loài ngựa. Nhưng tại sao Giôn Han lại không điên rồ trước cảnh con bò bị giết chết? Con vật vẫn là con vật, dù cho đó là con bò hay con ngựa. Giôn Han bị điên. Không còn có thể giải thích khác được. Anh ta điên 1 cách khát máu, chính anh ta là 1 con thú. Cái đó tôi để tuỳ các bạn đánh già. Cái nào tồi tệ hơn cái nào - việc con bò húc chết con ngựa. Hay việc Giôn Han lấy lưỡi lê đâm đại tá Haxitô Phiêrô? Hơn nữa, Giôn Han còn dùng lưỡi lê đâm chết những người khác. Anh ta đúng là hung dữ như quỷ. Anh ta vật lộn với những viên đạn trong người, đúng là khó mà có thể giết chết được anh ta. Và Maria Valenxuêla là 1 phụ nữ dũng cảm. Khác với những người phụ nữ khác, chị ấy không kêu khóc cũng không ngất xỉu. Chị ấy ngồi yên nhìn chăm chăm qua trường đấu. Mặt chị ấy trắng bệch, rồi chị ấy quạt nhưng không nhìn quanh đi đâu cả. Tứ phía, lính và sĩ quan kéo đến, cả những người dân thường đã dụng cảm dẹp được tên người nước ngoài điên rồ. Đúng là lúc ấy mọi người hét lên đòi giết chết tất cả những tên người nước ngoài. Đó là tiếng kêu thét cổ xưa của các nước Châu Mỹ Latinh, phản kháng lại những tên người nước ngoài và những hành động man rợ của họ. Đúng thế, tiếng kêu gào vang lên. Nhưng những người Êcuađo dũng cảm chỉ giết chết có Giôn Han, nhưng anh ta lại giết chết 7 người Êcuađo trước. Ngoài ra, còn có nhiều người bị thương. Tôi đã xem nhiều cuộc đấu bò, nhưng chưa bao giờ tôi lại chứng kiến cái cảnh ghê tởm ở trên khán đài sau khi cuộc đấu bò kết thúc như thế. Chẳng khác gì 1 bãi chiến trường. Người chết nàm rải rác khắp nơi, trong khi đó người bị thương nằm khóc than và rên rỉ, rồi 1 số trong họ cũng chết. Có 1 người bị Giôn Han đâm lưỡi lê xuyên qua bụng ôm chặt lấy người mà kêu thét lên. Tôi xin nói thật cảnh tượng này khủng khiếp hơn tiếng kêu rống của hàng ngàn con ngựa. Không, Maria Valenxuêla không lấy Lui Xécvalốt. Tôi thấy tiếc. Anh ta là bạn tôi, vả lại bao nhiêu tiền của tôi đã tung vào những cuộc phiêu lưu làm ăn của anh ta. 5 tuần sau những nhà phẫu thuật mới tháo băng khỏi mặt anh ta. Trên má anh ta vẫn còn 1 chiếc sẹo ngay dưới mắt cho đến ngày nay. ấy thế mà Giôn Han chỉ đánh anh ta bằng 1 quả đấm để tay trần. Maria Valenxuêla hiện nay đang ở áo. Người ta đồn chị ấy lấy hoàng tử nước áo hay 1 người quý tộc nào đó. Tôi không biết. Tôi nghĩ chị ấy yêu Giôn Han trước khi anh ta theo chị ấy đến Kitô để xem đấu bò. Nhưng tại sao lại vì con ngựa nhỉ? Đó chính là điều tôi muốn biết. Tại sao anh ta xem đấu bò mà lại nói điều đó không quan trọng, rồi liền ngay đó anh ta phát điên đến là khủng khiếp chỉ vì con ngựa kêu rống lên? Không thể nào hiểu nỗi những người nước ngoài. Họ là những kẻ dã man.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sự tích hoa Tiểu Tiên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lâm Hải Phong[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chuyện thằng Sứt đưa vợ Tây về thăm làng làm náo động cả dân làng Kiết. Cứ như lời lão Thộp, người già nhất làng, thì ngoài việc "vinh qui bái tổ" của thằng cu Sứt, đời lão chỉ được chứng kiến một sự kiện lớn khác, đó là ngày bộ đội giải phóng qua làng. Khốn nỗi sự kiện này xảy ra đã quá lâu lão chỉ còn nhớ lang máng. Làng Kiết xưa nay chưa ai học đến tú tài. Nghề cổ truyền của làng là nghề lấy đít trâu làm thước ngắm. Thằng Sứt, con nhà Đuột. Như mọi người dân trong làng, lão Đuột làm ruộng. Ngoài nghề làm ruộng, lão còn một nghề nữa, nghề đẻ. Vợ lão đẻ cả thảy mười ba đứa con, giữ được chín, thằng Sứt là thứ ba. Thằng Sứt lành lặn "khoẻ như con trâu nhà lão Bổng" chả ốm đau bao giờ. Truyền rằng, khi đẻ thằng Sứt. Đúng vào lúc lão Đuột lỡ tay làm Sứt cái vòi ấm, vợ lão hỏi: "Đặt thằng cu tên gì?" Lão bảo: "Sứt mất cái ấm, thật tiếc của! À, đặt nó tên Sứt. Cu Sứt!" Sứt học đến lớp ba trường làng thì bỏ. Cô giáo đến nhà vận động nó quay lại trường. Cô giáo về, mẹ nó bảo: "Ông xem thế nào nạt thằng Sứt cho nó đi học hộ tôi." Lão Đuột bảo: "Ôi dào! Học thì học, chả học thì đừng. Tôi có được học hành gì đâu mà cày vẫn thẳng tắp. Nó hơn tôi biết viết tên mình thế là nhà có phúc lắm rồi bà ạ!" Bỏ học, thằng Sứt trở thành lao động chính của gia đình. Chín, mười tuổi mà nó làm được ối việc. Nào mò cua bắt ốc, mót khoai mót lúa. Nào chăn trâu cắt cỏ, rồi thì hót cứt trâu về để ủ phân, nó làm tuốt tuột. Lão Đuột khoái chí: "Bà thấy không? Giỏ nhà ai, quai nhà ấy!" Bà Đuột nguýt: "Đúng là rau nào sâu nấy!" Mười sáu tuổi, thằng Sứt theo ông cậu lên thị xã làm phu hồ. Nó đi miết. Ba năm sau, nó trở về. Dẫn theo một toán thợ xây. Nó bảo: "Đập nhà đất đi, xây nhà gạch!" Lão Đuột hỏi:" Nhà mấy gian?" Nó bảo: "Nhà năm gian!" Lão Đuột lại hỏi: "Mái ngói?" Nó lắc đầu: "Mái bằng, đang mốt. Sau tiện cơi nới. "Nhà xây xong. Bề thế nhất làng. Nó lại bỏ đi. Chuyện này đã một dạo xôn xao dân làng Kiết. Có người lấy thằng Sứt làm gương cho con cái: "Đấy chẳng phải học đâu xa, chúng mày cứ học ngay anh Sứt con nhà bác Đuột í!" Có người khen: "Cái thằng trông chân chỉ hạt bột mà đến là giỏi giang!" Có người lại còn đoán già đoán non: "Thánh nhân đãi khù khờ. Nghe bảo thằng Sứt nhặt được hũ vàng trong lúc đào thuê móng nhà cho gia đình ở mãi tận Hà nội." Thằng Sứt bỏ đi biệt tăm. Một hôm, có người khách ăn bận sang trọng, đi xe ô tô con mới khự, đỗ xịch trước cửa nhà ông Đuột. Người khách hỏi: "Bác là bố của Sự, ở Ba lan?" Ông Đuột bảo :"Sự nào?" Người khách bảo: "Lê Thế Sự, nhà to nhất làng "Ông Đuột bảo: "Chắc bác nhầm, làng này không ai tên Sự!" Người khách cho ông Đuột xem tấm ảnh. Ông Đuột thốt lên: "Thằng Sứt! Đúng nó rồi, thằng Sứt, con tôi!" Người khách đưa cho ông Đuột chiếc phong bì, bảo quà của Sự, cáo vội rồi đi. Bà Đuột đun xong ấm nước, chạy lên thì người khách đã đi mất. Bà hỏi: "Sao ông không giữ người ta lại uống miếng nước đã?" Ông bảo: "Chết thật! Quýnh lên, quên mất." Bà hỏi: "Có thư à!" Ông cầm chiếc phong bì, rút xấp giấy màu xanh lá cây giơ lên bảo: "Chẳng có thư, có cái này, thằng Sứt gửi". Bà tò mò: "Cái gì thế?" Ông bảo: "Chịu! Chờ chúng nó về khắc biết". Bà ca cẩm: "Cái thằng đến tệ, chả thư từ bao giờ sất!" Ông phân trần: "Nó nhớ đến mình là tốt rồi, chữ nghĩa có quên cũng chả sao" Sứt tính vẫn thế, về đường đột rồi ra đi cũng đường đột. Chỉ khác là lần này về với cô Tây. Cô Tây tóc vàng, mắt xanh, da trắng như trứng gà bóc, dáng người thon thả, thắt đáy lưng ong. Cô Tây mặc quần cộc bó, áo chít hở bụng, đẹp như cô tiên trong truyện cổ tích. Trẻ con người lớn trong làng bu đến xem. Cô Tây xì xồ gì đấy với anh Sứt, anh cũng xì xồ lại, trẻ con khoái trá cười khúc khích. Mọi người kéo đến hiên nhà anh Sứt thì bị chặn lại. Thằng Súng, thằng Sính em anh Sứt mỗi thằng cầm một cái gậy đứng hai đầu nhà làm trật tự viên. Thằng Chấp con nhà Ngạnh nổi tiếng bặm trợn, rẽ đám đông lao như con thiêu thân thẳng tới chỗ cô Tây. Thằng Súng lao theo nhưng không kịp, thằng Chấp lấy ngón tay trỏ quẹt mạnh vào cái rốn hở của cô Tây rồi lại rẽ đám đông toan bỏ chạy. Thằng Sính xoải gậy vụt cho thằng Chấp một cái quắn đít. Kệ! Thằng Chấp một tay vừa ôm vừa xoa đít, còn tay kia vẫn giơ cao ngón tay trỏ chạy thẳng về nhà. Mãi đến tận khuya phần do chen nhau mệt quá, phần do muỗi cứ vo ve như ong vỡ tổ mọi người mới túc tắc tản về. Sáng hôm sau dân làng Kiết dậy rõ sớm nhưng không thấy cô Tây và anh Sứt nữa. Lão Đuột bảo anh Sứt chê làng bẩn thỉu lạc hậu nên đưa cô Tây lên Hà nội thuê khách sạn ở. Anh Sứt và cô Tây đi rồi thì tin đồn mới lan sang làng bên, rồi lên huyện. Dân làng bên, rồi thì dân trên huyện đổ về làng Kiết đông nghìn nghịt. Không gặp anh Sứt và cô Tây nữa họ xúm vào bàn tán. Cha con tay Lục nhanh ý căng dây quanh mấy cây bạch đàn mở dịch vụ trông xe đạp xe máy. Nhà mẹ Toan mở ngay quán bán nước chè, nước đun bằng lá cây đi vun khói um cả làng. Thế mà khách khứa cứ tấp nập. Họ uống nước rôm rả kể chuyện về anh Sứt và cô Tây. Thuốc lào kéo sòng sọc, koẹ lạc cắn rôm rốp, nước bọt bắn tung tóe từ miệng người này sang mặt người kia. Mặc! Ai hơi đâu mà để ý nước bọt thối hay thơm lúc này, việc người ta để ý lúc này là việc cô Tây và anh Sứt. Mới hay khi con người có những mối quan tâm khác lớn hơn, người ta dễ dàng bỏ quá cho nhau những chuyện nhỏ nhặt (Mà ngày thường thậm chí có thể giết nhau). Hai tuần sau khi anh Sứt và cô Tây đi khỏi làng. Làng Kiết, một làng nghèo nhất huyện nay trở lên quá đỗi sầm uất. Ngoài điểm trông xe của cha con nhà Lục bây giờ cả làng thêm bốn điểm nữa, bảy quán nước chè và ba quán cơm bụi. Người ta đua nhau san bằng ruộng khoán, tất cả cho dịch vụ, dịch vụ là trên hết, dịch vụ bây giờ là ưu tiên số một. Xoay quanh chuyện anh Sứt và cô Tây người ta còn bàn tán đủ điều nữa. Nào là cô Tây đẹp, đẹp vô cùng, đẹp quá thể, đẹp "nước đái chan canh". Nào là đẹp chấp Kiều một mắt, đẹp hơn Kiều chổng mông... vv... Có người còn thề thốt là nhìn thấy anh Sứt múc nước cho cô Tây tắm ở giếng, trăng mười tư sáng vằng vặc nhưng thấy da thịt nõn nà của cô Tây cũng phải xấu hổ rúc vào mây mà trốn. Chuyện bất tận. Thật có, bịa có... Cách đây hai tháng tôi có dịp trở lại thăm làng Kiết. Làng Kiết bây giờ giàu có, khang trang. Dân làng Kiết phần lớn sống nhờ vào một dịch vụ mới: Dịch vụ ươm và bán cây giống cảnh. Đời sống người dân nước ta giờ đã khá giả hơn thành thử họ cũng chăm lo nhiều tới nội thất gia đình cũng như môi trường xung quanh. Người ta đổ xô về làng Kiết để mua cây giống, đồn rằng có một giống cây phải được ươm ra từ làng Kiết và chỉ có giống ở đây cây mới lên xanh tốt lạ thường. Thằng Chấp mặc áo veston, quần pigiama, đi giầy adidas dựng xe Dream, bê từ giỏ xe một bình cây cảnh, nở nụ cười vàng két thuốc lào tiến lại phía tôi. Nó vẫn thế vẫn hềnh hệch như xưa. Tôi đỡ bình hoa từ tay nó đúng là cây hoa đẹp lạ thường. Lá cây xanh pha màu nước biển, cánh hoa cong cong trắng nõn nà, trắng như tuyết, nhụy hoa vàng phơn phớt râu ngô. Tôi bảo Chấp: "Kiếm quán nước chè anh em ta uống nước nói chuyện!" Chấp bảo : "Anh lạc hậu quá! Anh đi cà fê ôm hay bia ôm? Làng này bây giờ bán nước chè có mà chết đói à? "Sau đó Chấp kể cho tôi nghe khi cô Tây đi rồi, từ chỗ cô Tây ngồi đái (giữa hai ụ đất mà dân làng có thói quen dùng để đánh chịn) đã mọc lên loài hoa lạ này, dân làng Kiết gọi đó là Hoa Tiểu Tiên.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sự thật đằng sau cái Chết[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Agatha Christie[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một ngày đẹp trời, thám tử Poirot theo người bạn già Boniton đến ăn tối tại tiệm Galon trên đường Kinh Đô thuộc khu Trenci. Boniton là một người rất sành ăn. Ông thường đến tiệm này vì bầu không khí ấm cúng và món ăn ở đây nấu theo kiểu Anh đơn giản nhưng rất hợp khẩu vị. Họ chọn bàn góc phòng, cạnh chậu cây kiểng có hoa lấm tấm màu hồng tươi. Boniton nói với bạn: - Anh biết không! Đây là chỗ ngồi đặc biệt danh dự đấy. - ... - Nghệ sỹ lừng danh Augertus John thường dùng bữa tại chỗ này đấy. Thám tử Poirot mỉm cười trước vẻ huênh hoang của Boniton. Ông bạn này chẳng nghệ sỹ chút nào nhưng lại rất khoái nhắc đến lĩnh vực này. Cô hầu bàn Molie tươi cười bước đến: - Chào hai ông. Các ông muốn khai vị món canh hay cá? Hôm nay còn có món gà tây nấu đậu và phômai đặc biệt. Mời hai ông dùng thử. Boniton nói: - Poirot à, hôm nay chúng ta dùng toàn món Anh thôi nhé. - Tùy ý anh. Boniton chọn món ăn nhanh chóng, rồi nhìn theo Molie đang đi về phía nhà bếp: - Cô bé này khá lắm. Đã có một thời đi làm người mẫu thời trang đấy. Cô ta phục vụ rất tốt, biết chìu khách, đón ý từng người. Chả bù với những cô gái khác, khi đi ăn với bạn trai chỉ biết chọn những món mình thích, chả quan tâm đến ai hết. Cũng may, đàn ông chúng ta thì khác. Poirot nheo mắt: - Có chắc không đó? - Tôi không có ý khen tất cả đàn ông. Nhất là những chàng trai trẻ. Họ thường nông cạn, thiếu kiên nhẫn và tôi không chịu được lý luận đáng ghét của họ. - Lý luận thế nào? - Những người quá 60 tuổi chẳng có quyền tồn tại trên đời, bọn trẻ thật chả xem cha mẹ mình ra gì! Poirot mỉm cười: - Vậy thì chúng ta nên chú ý đến những vụ chết đột ngột của những người trên 60 tuổi. - Thôi anh đừng méo mó nghề nghiệp nữa. Hãy để cho tội ác tự tìm đến anh thì hay hơn. - Đừng nói lung tung nữa. Sao? Dạo này công việc làm ăn của anh có tiến triển tốt chứ? - Chán lắm! Đi đâu cũng gặp những "thùng rỗng kêu to". Giống như cá ươn được chan nước xốt để đánh lừa mùi tanh đấy. Tôi chỉ thích ăn một lát cá tươi thôi, khỏi cần ướp gia vị. Molie mang đến đĩa cá thu tươi: - Mời hai ông. Boniton gật đầu hài lòng: - Cô thật biết ý tôi. Cô có nghĩ là tôi sẽ đổi món không? - Các ông thường trung thành với những món ăn quen thuộc, còn các bà thì không. Họ thay đổi thức ăn đến chóng mặt. Boniton vỗ vai Poirot: - Tôi nói đúng chưa? Phụ nữ luôn luôn rắc rối - ông chỉ tay về phía góc đối diện - Anh hãy nhìn cái ông râu xia xồm xoàm kia kìa. Molie nói rằng, từ 10 năm nay, ông cụ luôn luôn đến đây dùng bữa vào tối thứ ba và thứ năm. Không ai biết tên, chỗ ở và nghề nghiệp của ông cụ. Molie đem món ăn khác đến, Boniton hỏi: - Ông cụ ấy vẫn đều đều đến đây dùng bữa phải không? - Vâng. Đúng vào mỗi tối thứ ba và thứ năm. Nhưng có một ngoại lệ. Tuần rồi, cụ bất ngờ đến vào tối thứ hai làm cháu cứ tưởng hôm đó là thứ ba. Nhưng ngày hôm sau cụ vẫn đến, nghĩa là tuần đó, cụ đến thêm một ngày. - Cụ vẫn gọi món ăn như thường lệ chứ? - Rất lạ là không. Buổi tối thứ hai ngoại lệ ấy, cụ đã gọi hai món mà cụ ghét nhất. Đó là xúp cà chua thịt nạc và bánh ngọt nhân dâu tây. Cháu thấy kỳ nhưng đâu dám thắc mắc. Poirot xoa hai tay vào nhau: - Câu chuyện hấp dẫn quá. Boniton hỏi: - Anh nghĩ sao? Tôi đoán là ông cụ đã đi bác sĩ và bác sĩ đã khuyên ông cụ thay đổi thực đơn. - Bác sĩ nào mà điên thế. Toàn là món ăn nặng bụng không thích hợp với tuổi già chút nào. - Đã là bác sĩ thì làm gì chả được. - Anh không còn cách phán đoán khác sao? - À, có thể là ông cụ đang bị một cảm xúc nào đó, cảm xúc mạnh đến nỗi cụ không biết mình đã gọi món ăn gì. Anh nghĩ có đúng không. Có thể cụ đang suy tính một chuyện gì rất quan trọng... Poirot không trả lời. Ba tuần lễ trôi qua. Tình cờ, thám tử Poirot gặp Boniton trong một chuyến xe điện ngầm. Boniton nói: - Có tin sốt dẻo cho anh đấy. Anh còn nhớ ông cụ đặc biệt ở quán Galon không? Molie cho biết cả tuần nay không thấy ông cụ đến ăn. Cô ta lo lắm. Tôi nghĩ là ông cụ đã thay đổi các món ăn uống, cụ bị sốc và ngã bệnh trầm trọng hơn. Điều này giải thích được sự đãng trí của cụ khi gọi các món ăn. Theo tôi, bác sĩ cần phải tế nhị với bệnh nhân mới được. Về đến nhà, Poirot bỗng có ý định thử xem có bao nhiêu người chết được đưa tin trên báo. Ông lật tất cả nhật báo trong tuần xem mục "tin buồn". Ngón tay ông dò tìm và dừng lại ở hàng chữ: "Henri Gatko, 69 tuổi, ở số nhà... đường Kinh Đô". Ông quyết định, thử bắt đầu từ ông cụ này xem sao. Chiều hôm đó, thám tử Poirot đến phòng khám bệnh của bác sĩ Mac ở đường Kinh Đô, hỏi thăm về cụ Henri Gatko. Bác sĩ trả lời rất nhiệt tình: - Người này tôi biết. Đó là một cụ già kỳ quặc, ít tiếp xúc với ai. Cụ nghèo, sống trong một căn phố cũ kỹ. Tôi không phải là bác sĩ của cụ nhưng là người khám nghiệm tử thi. Cụ ở một mình nên gặp nạn chả ai hay. Nhờ anh chàng giao sữa thấy mấy chai sữa để y nguyên nơi cửa nhà ông cụ nên hô hoán lên, hàng xóm mới đi báo cảnh sát. Người ta tìm thấy xác cụ ở chân cầu thang, xương cổ bị gãy. Chắc là cụ té vì vướng chân vào vạt áo ngủ. - Ông cụ có họ hàng bà con gì không? - Cụ có một người cháu ruột, mỗi tháng anh ta đến thăm cụ một lần. Đó là George Lorimer, anh ta cũng là bác sĩ, nhà ở khu Wilberdon. - Từ 48 đến 72 giờ trước đó, không thể lâu hơn. Người ta thấy xác cụ ngày mồng 6, nhưng trong túi áo ngủ lại có một lá thư viết ngày mồng 3 được gửi từ Wilberdon chiều hôm đó và đến nhà ông cụ vào 9 giờ tối cùng ngày. Chi tiết này giúp cảnh sát xác định tai nạn xảy ra sau 9 giờ tối và ông cụ đã dùng bữa hai giờ trước khi chết. - Bác sĩ có biết, ai là người thấy cụ lần cuối cùng? Vào lúc nào? - Tối hôm cụ mất, ngày mồng 3 và cũng là ngày thứ ba. Cụ vẫn đến quán Galon như thường lệ. Nhiều người đã thấy cụ. - Ngoài người cháu, cụ còn ai thân thích nữa không? - Có. Một người anh sinh đôi. Người này tên Antoni Gatko là một nghệ sĩ lớn, nhưng từ ngày lấy một bà vợ rất giàu, ông từ bỏ nghệ thuật luôn. Vì chuyện này mà hai anh em cãi nhau dữ dội đến nỗi từ bỏ nhau, không thèm nhìn mặt nhau nữa. Lạ một điều, hai người lại chết cùng một ngày. Cụ Antoni mất lúc 3 giờ chiều, còn cụ Henri thì 3 giờ tối. - Bà Antoni còn sống không? - Bà ta mất lâu rồi. Toàn bộ tài sản nằm trong tay ông chồng. Tiếc rằng họ không có con. - Bác sĩ biết nhà của cụ Antoni không? - Tôi sẽ cho ông địa chỉ. Thám tử Poirot chợt trầm ngâm: - Theo tôi, cụ Henri đã bị... đẩy xuống cầu thang. - Một vụ án mạng ư? - Bác sĩ Mac cười nhẹ - Ông đã bị méo mó nghề nghiệp rồi. Nếu ông nghi người cháu là thủ phạm thì ông đã lầm. Bác sĩ Lorimer đã đánh bài cùng mấy người bạn tại nhà mình từ 8 giờ tối cho đến nửa đêm. Cảnh sát đã chứng thực điều này. Ông có biết điều gì liên quan đến người cháu sao? - Thật ra, tôi đâu có biết ông cụ có cháu. - Vậy, ông nghi một người nào khác chăng? - Không, nhưng tôi thấy cái chết của cụ có điều gì không ổn. Có quá nhiều nướt sốt để che mùi tanh của cá. - Ông nói gì? - Xin lỗi, tôi đã làm mất thì giờ của bác sĩ. Bác sĩ Mac tiễn thám tử Poirot ra cửa: - Theo tôi, cái chết của cụ Henri không có gì đáng nghi cả. - Vâng, có thể là tôi cố chấp. À, tôi xin hỏi thêm một câu nữa, cụ Henri có mang răng giả không? - Không, răng cụ rất tốt. - Răng cụ trắng hay vàng? Có dính gì không, như khói thuốc lá chẳng hạn? - Lạ một điều là răng của cụ trắng lắm. Không có một bợn khói thuốc lá. Chắc là cụ thường chải răng rất kỹ. - Cảm ơn bác sĩ. Rời phòng mạch, thám tử Poirot ghé lại quán Galon. Một cô hầu bàn lạ bước đến: - Hôm nay cháu thay chị Molie vừa nghỉ phép. Ông dùng gì ạ? - Nè cô, cô có biết ông cụ có râu nhiều, thường đến đây dùng bữa không? - Dạ biết. Cụ thường đến vào tối thứ ba và thứ năm. Nhưng mới đây cụ không đến nữa. Cháu đã thấy hình cụ đăng trên báo. Thật tội nghiệp. - Tối hôm đó là thứ ba, cụ vẫn đến như thường lệ. - Cô có nhớ hôm đó, cụ gọi món gì không? - Dạ, để cháu nhớ xem... hình như là xúp cà chua thịt nạc, bánh ngọt nhân dâu và phômai. - Cảm ơn cô. Giờ cô cho tôi món cá thu chan nước xốt và một ít bánh mì. Vừa ăn thám tử Poirot vừa suy nghĩ. Chà, anh chàng khôn ngoan vậy mà lại mắc phải những sai lầm không đáng có. Lão Boniton biết chuyện này chắc là thích lắm. Ngày hôm sau, thám tử Poirot đến gặp ông trưởng ban điều tra vùng cụ Henri trú ngụ. Ông này nhận xét: - Ông cụ này rất lập dị. Cụ sống khép kín, không ngao du với ai cả. Ông có điều gì thắc mắc sao? - Ông có thể cho phép tôi được biết nội dung lá thư trong túi áo nạn nhân được không ạ? - À, đó là bức thư của bác sĩ Lorimer, cháu của ông cụ. Lá thư giúp chúng tôi xác định ngày, giờ nạn nhân chết, rất phù hợp với báo cáo của bác sĩ pháp y. Tôi sẽ cho ông xem. Đợi một lát nhé. - Rất cảm ơn ông. Nguyên văn lá thư viết tay: "Wilberdon, ngày 3 tháng 11 năm... Chú Henri thân yêu, Cháu rất buồn báo tin cho chú rõ, chú Antoni bệnh nặng lắm, sợ không qua khỏi. Tuy nhiên chú ấy vẫn không bỏ qua chuyện quá khứ như chú hy vọng và không muốn chú đến gặp, xem như trên đời này không có một người em ruột như chú. Thật đáng buồn. Cháu đã hết sức cố gắng để giúp chú nhưng lực bất tòng tâm. Mong chú thông cảm cho cháu. Cháu của chú: G. Lorimer" Con tem ngoài phong bì in dấu bưu điện 16 giờ 30 ngày 3-11. Poirot tự nhủ: "Mọi việc xếp đặt đâu ra đấy. Giỏi thật." Sau đó, thám tử Poirot tìm đến nhà ông anh sinh đôi của nạn nhân. Cụ Antoni cũng vừa mới mất. Chỉ còn một mình bà quản gia Marie ngồi rầu rĩ trong ngôi biệt thự khá lớn có vẻ lạnh lẽo. Bà cho biết, Antoni là một cụ già kỳ cục. Suốt 14 năm trời, bà tận tâm phục vụ, chăm sóc cho ông từng miếng ăn giấc ngủ, chịu đựng tính tình khó chịu của ông. Nhưng bà đã được gì ngoài hai bàn tay trắng? Đúng là con người vô lương tâm.Ông ta giàu vậy mà khi chết, chả để lại cho bà cái gì. Trong bản chúc thư làm từ đời nảo đời nao, ông ta để lại tất cả của cải cho vợ, nếu vợ chết trước thì người em sinh đôi tên Henri Gatko sẽ thừa hưởng. Thật là bất công! Poirot an ủi: - Bà yên tâm. Thế nào luật sư của cụ Antoni cũng chiếu cố đến trường hợp của bà. Tôi nghe nói cụ Antoni tuy giàu nhưng rất keo kiệt. Ngay đến người em ruột túng thiếu cũng không giúp đỡ cho nữa là. - Hai anh em giận nhau từ lâu lắm rồi. Mới đây thôi, bác sĩ Lorimer có đến nói chuyện với cụ, trong câu chuyện cứ nhắc hoài đến tên Henri. Hình như cụ Henri nhờ người cháu đến hòa giải thì phải. Nhưng khi đó, ông cụ đã mệt lắm rồi. Sau khi ăn tối, thám tử Poirot đến khu Wilberson tìm bác sĩ Lorimer. Đó là một chàng trai tầm thước, râu cạo nhẵn, cử chỉ nhanh nhẹn, tóc nâu nhưng lông mày lại có màu sáng khiến cho gương mặt trở nên nhợt nhạt. Poirot mở đầu câu chuyện: - Tôi đến như thế này có hơi đường đột. Mong ông thông cảm. Lorimer nhìn ông không mấy thiện cảm. - Ông muốn gì đây? Poirot đưa danh thiếp cho Lorimer, nói giọng thân mật: - Thân chủ của tôi phần lớn là phụ nữ. Các bà thường không tin mấy ông cảnh sát, mà thích những cuộc điều tra riêng tư hơn. Cho nên họ thường tìm đến chúng tôi để giải bày tâm sự. Cách đây mấy hôm, có một bà già đến gặp tôi. Bà ta giận chồng nên sống riêng đã 3, 4 năm rồi. Chồng bà cụ chính là chú Gatko của ông, người vừa mới mất. Lorimer lớn tiếng: - Chú tôi. Ông nói sao? Thím tôi mất từ lâu lắm rồi! - Không phải chú Antoni, mà là chú Henri cơ. - Chú Henri? Ông lại càng lầm. Chú ấy không có vợ. - Tôi chả biết, nhưng rõ ràng là cụ ông có làm hôn thú với cụ bà. Chính mắt tôi thấy giấy tờ hoàn toàn hợp lệ. Lorimer gầm lên vì tức giận: - Láo toét. Tôi không tin. Hoàn toàn không tin. - Thật đáng tiếc phải không ông? Ông đã gây ra một án mạng mà chẳng được lợi lộc gì cả. Cũng chỉ tại thói quen tệ hại của ông. Ông thích ăn bánh kem nhân dâu lắm phải không? Hèn gì răng ông vàng hết. Dâu ngon thật nhưng ăn nhiều quá cũng đi đến chết người. Chính món bánh kem nhân dâu sẽ đưa ông ra tòa đấy. Lorimer hốt hoảng, mặt mày tái mét, cặp mắt mở to nhìn thám tử Poirot. Ba ngày sau, cũng tại tiệm ăn Galon, Poirot bảo Boniton: - Lập luận của anh sai ngay từ căn bản. Một người tâm trí rối loạn không bao giờ làm những gì mà anh ta chưa hề làm. Anh ta chỉ làm theo thói quen mà thôi. Theo lời cô Molie kể, tối thứ hai ngoại lệ đó, cụ Henri đã gọi những món ăn mà xưa nay cụ rất ghét. Hành động này hoàn toàn phi lý và đã làm tôi nghĩ ngợi rất nhiều. Rồi sau đó, cụ không đến nữa. Cụ đã bỏ một thói quen mà cụ đã làm đều đặn suốt 10 năm qua. Tôi nghĩ đến một giả thuyết xấu. Đó là ông cụ đã chết. Và quả vậy. Cụ đã chết, chết một cách rõ ràng, minh bạch. Giống như nướt sốt thơm rưới lên món cá ươn. - Anh nói rõ hơn đi. - Người ta thấy cụ đến ăn tối ở tiệm này vào lúc bảy giờ rưỡi, hai tiếng đồng hồ trước khi chết. Tất cả đều logic. Bức thư phát cùng ngày lúc chín giờ tối, tình trạng thức ăn trong bao tử. Trong thời gian cụ bị nạn, người cháu đang có mặt ở một nơi khác. Ai cũng nghĩ đây là một tai nạn, nhưng tôi thì không. Anh cũng biết ai sẽ được hưởng gia tài khi cụ mất! - Anh lầm rồi. Hưởng cái gì mới được chớ. Cụ Henri nghèo rớt mồng tơi. - Anh lầm thì có. Cụ Henri có ông anh ruột giàu sụ. - Thì có liên quan gì đâu? - Anh chưa thấy rõ vấn đề sao? Bà vợ giàu để của lại cho ông chồng. Chồng để lại cho em. Em không có vợ con, tiền của sẽ lọt vào tay người cháu ruột. Vậy là hợp lý. - Hay thật. Anh đã suy nghĩ như thế nào? Tôi rất muốn nghe. - Cụ Henri chết hai giờ sau bữa ăn, không phải bữa ăn tối mà là bữa ăn trưa. Anh cứ đặt mình vào địa vị của Lorimer. Anh ta đang cần tiền một cách tuyệt vọng. Ông chú Antoni bệnh sắp chết, cái chết đem lại sự giàu sang cho ông chú Henri. Mà ông chú Henri thì còn khỏe mạnh quá. Vậy thì phải làm sao cho ông chú này chết càng sớm càng tốt, nhưng phải sau cái chết của ông chú giàu. Và Lorimer đã hành động. Anh ta biết mỗi tuần, cụ Henri có thói quen đến ăn tối hai lần ở tiệm Galon. Nên một buổi tối thứ hai, anh ta đeo râu tóc giả, cải trang thành cụ đến tiệm ăn. Nhờ anh ta có dáng dấp giống cụ, lông mày lại bạc nên càng giống hơn. Sự việc diễn tiến tốt đẹp, ai cũng tưởng anh ta là cụ Henri đã phá lệ đến ăn vào tối thứ hai hôm ấy. Thành công bước đầu, Lorimer yên chí, chỉ cần dò xem ngày nào cụ Antoni hấp hối (cụ này bệnh đã lâu rồi). Đến lúc phải hành động, anh ta viết một lá thư cho cụ Henri vào chiều mồng hai, nhưng lại đề là mồng 3. Khoảng 3, 4 giờ chiều mồng 3, anh ta tới thăm cụ Henri. Chỉ cần đẩy mạnh tay một tí là ông chú tội nghiệp ngã lăn xuống cầu thang. Anh ta lấy lá thư trên bàn bỏ vào túi áo ngủ của ông cụ. Đến bảy giờ rưỡi tối, anh cải trang thành ông cụ, có mặt tại tiệm ăn Galon như thường lệ. Điều này chứng tỏ cho mọi người biết, lúc bảy giờ rưỡi ngày mồng 3, cụ Henri vẫn còn sống. Ăn xong, anh ta vào nhà vệ sinh và khi trở ra, đã biến thành bác sĩ Lorimer. Chưa tới nửa giờ sau, anh đã có mặt bên bạn bè tại Wilberson. Một chứng cớ ngoại phạm hoàn hảo. - Thế thì dấu bưu điện trên phong bì thì sao? - Dấu bị bôi tèm lem. Số 2 được sửa thành số 3. Tôi đã quan sát kỹ bì thư và thấy rất rõ. Còn nữa, bằng chứng rõ rệt nhất là những trái dâu. - Những trái dâu? - Lorimer chưa phải là diễn viên giỏi. Anh ta bắt chước ông chú y hệt nhưng chỉ bề ngoài thôi, vì anh ta đã không tập ăn như ông chú. Anh ta đã gọi món mà anh ta thích nhưng ông chú lại rất ghét, đó là dâu tây. Dâu làm vàng răng, khi khám nghiệm, răng của nạn nhân rất trắng. Vậy không thể nào chính nạn nhân đã ăn ở nhà hàng tối hôm mồng ba được. Tôi đã hỏi bác sĩ pháp y, dạ dày nạn nhân không hề có chất dâu. Người ta còn tìm thấy trong nhà Lorimer bộ râu giả để hóa trang nữa. Thật ra, có rất nhiều chứng cớ buộc tội tên cháu bất nhơn này. Tôi đã đến thăm hắn, kể cho hắn nghe một câu chuyện bịa đặt, và hắn đã lòi đuôi ra ngay. À, khi tiếp tôi, răng hắn vàng khè vì vừa ăn món bánh dâu xong. Đúng là một tên tham ăn. Đúng lúc đó, cô hầu bàn mang đến hai đĩa bánh kem nhân dâu. Thám tử Poirot xua tay: - Chúng tôi không dám gọi món này đâu. Cô mang đi cho...[/FONT]
Ký ức tình Yêu... Sưu tầm Anh có yêu em không?" "Có". "Yêu như thế nào?" Duy tròn mắt nhìn Vân một thoáng, hơi bối rối: "Thì... cũng như mọi người yêu nhau". Vân đỏng đảnh: "Ứ, ứ cần anh nói thế. Phải cụ thể hơn cơ". Duy dụi tắt điếu thuốc lá, cố nén tiếng thở dài, giọng nói đã có phần khang khác: "Em vẫn bảo tình yêu là một khái niệm trừu tượng cơ mà". Cũng may Vân đã chịu ngồi im, đầu tựa vai anh, mắt lơ mơ nhìn cả vạt đồi thoai thoải tím ngắt sim mua. Một nôi nghỉ ngơi thật tuyệt - Duy nghĩ, nếu như chỉ có một mình anh, anh sẽ nằm xoài ra thoải mái, nhìn trời qua những kẽ lá và nghĩ mông lung. Duy chợt thấy buồn cười, có ai như anh không, ước có một mình trong lúc ngồi cạnh người yêu. Duy thấy vai mình nặng trĩu, dường như Vân đã ngủ. Anh đỡ mái đầu Vân ngả lên đùi mình, chăm chú ngắm từng nét mặt cô. Phải thừa nhận là Vân giống Linh, giống như hai chị em ruột mặc dù họ chẳng hề biết nhau ngoaụi đời. Nghĩ đến Linh, Duy vẫn thấy lòng mình se thắt, dù đã 6 năm rồi... Cũng rèm mi hoe hoe vàng cong vút (chứ không phải mi đen) khiến cho đôi mắt có vẻ gì là lạ, đầy ấn tượng. Cũng nốt ruồi son ngay trên cánh môi (nhỏng nốt ruồi của Linh nằm chếch về bên trái, bướng bỉnh và tinh nghịch hơn), cũng đôi má bầu bầu, mái tóc ngang lưng, càng nhìn càng thấy giống. Bỗng Vân cựa quậy rồi mở mắt: "Sao nhìn em lạ vậy? Cứ như nghi ngờ điều gì ấy". Hình ảnh Linh vụt biến mất, chỉ còn lại là Vân. Duy lắc đầu, âu yếm vuốt vuốt mấy sợi tóc xoà trên trán người yêu, kỳ thực để cho Vân nhắm mắt, thôi quấy rầy anh bằng những điệp khúc câu hỏi cũ mèm. Ừ nhỉ, tại sao những kỳ nghỉ ngơi lại cứ gắn với mùa hè. Mà tại sao bao nhiêu năm rồi anh vẫn giữ thói quen đến những vùng đồi núi? Nó nhắc anh, bắt anh phải nghĩ về Linh nhiều hơn - cũng có nghĩa là giày vò, hành hạ anh đến khổ sở. Ngày ấy, Linh cũng yêu hoa sim tím vô cùng. Không, em yêu tất cả các loại hoa màu tím thì đúng hơn. Hai đứa bằng tuổi nhau, tròn hai mươi. Trong nụ hôn đầu choáng váng và run rẩy đến nghẹt thở, Duy hỏi nhỏ: "Gọi Duy là anh nhé?" Linh xấu hổ, cắn vào cằm anh thật đau. Yêu nhau đến độ tưởng như chết được vì nhau, Linh vẫn không thay đổi cách xưng hô: "Duy ơi, Linh nhớ Duy kinh khủng". "Duy ơi! Khăn len Linh đan cho Duy này". "Duy ơi, muốn ốm không đấy, trời mưa thế này mà dám đi đầu trần". Mới đầu Duy còn cự nự, cứ đòi Linh gọi là anh, Linh chỉ cười: "Khi nào mình... cưới nhau, Linh sẽ gọi Duy là anh, chịu không?" Duy chịu thua trước nụ cười thiên thần ấy để ôm ghì Linh trong vòng tay cuồng nhiệt của mình... Chiều nắng nhạt dần và gió lồng lộng. Vân tung tăng đi trước Duy, thỉnh thoảng lại cúi xuống ngắt vài bông hoa dại. Tóc Vân bay xấp xoã, đáng yêu hệt như hôm anh gặp Vân lần đầu. Duy chạy tới, bịt mắt Vân, cắt ngang tiếng cười khanh khách của người yêu bằng một nụ hôn dài "Anh yêu em, biết không hả công chúa?" Vân buông ngay nắm hoa dại, vòng tay qua cổ anh, đắm đuối: "Đừng làm em phát điên lên vì anh nữa"... Duy dìu người yêu đi chầm chậm. Lạ thay, bên Vân, anh vẫn không thôi nghĩ về Linh, dù anh yêu Vân thực sự, dù Linh đã thuộc về quá khứ xót xa... ... Linh chưa kịp bước sang tuổi 21, chưa kịp cùng anh thổi nến trong ngày sinh. Duy vẫn nhớ, ngày ấy anh đã hỏi Linh thích quà tặng gì nhất cho ngày sang tuổi mới. Linh áp đầu vào ngực Duy, thầm thì: "Linh chỉ thích có Duy thôi, thật đấy". Vậy mà Linh... Đó là một ngày chủ nhật đường phố đông nghẹt đã cướp đi Linh của anh. Trong giỏ xe vẫn còn lăn lóc một gói quà nho nhỏ. Cô bạn chơi thân với Linh thổn thức: "Nó bảo... nó bảo sáng nay đi chọn mua tặng anh một chiếc cavat thật đẹp". Duy không tin vào tai mình nữa, anh điên cuồng chạy khắp bệnh viện như một gã tâm thần. Người ta ngăn không cho anh vào nhà xác, không cho anh vào với Linh khi Linh không còn biết cười, biết nói, biết nhìn anh... Anh đã gào lên nguyền rủa hết thảy, gào lên trong nỗi tuyệt vọng tột cùng... "Anh xem em mặc áo dài màu này có hợp không?" Duy nhìn Vân đang xoay người trước gương, gật gù "Đẹp lắm cưng ạ! Mà với anh, em mặc màu gì cũng đẹp". Vân quay lại, âu yếm sửa cổ áo cho Duy rồi la lên: "Sao anh không đeo cavat vào. Trời ạ! Mặc complê đi dự đám cưới mà thiếu cavat". Duy thành thật: "Anh chẳng có cái nào đâu". Vân ấn anh ngồi xuống ghế, với tay lấy chìa khoá xe "Để em đi mua cho anh". Mặt Duy thoắt tái nhợt, tim anh nhói lên như có vật nhọn nào vừa đâm trúng "Vân, đừng kệ anh". Vân hốt hoảng nhào đến. Lát sau, Duy trở lại bình thường, lúng túng giải thích: "Anh hơi đau đầu. Nhưng anh không dùng cavat đâu". Vân dằn dỗi "Nhưng mà tại sao mới được chứ. Sao anh gàn thế? Hay anh không khiến em thì tự anh đi mua cũng được. ừ, mà chưa bao giờ em thấy anh dùng cavat". Đơn giản thế mà cũng giận nhau. Vân đùng đùng bỏ về, không đi đám cưới sau một điệp khúc câu hỏi "Tại sao" mà Duy chẳng thể trả lời. Từ ngày Linh mất, Duy không bao giờ dùng cavat. Anh cứ có cảm tưởng cổ mình bị thít chặt lại khi nghĩ đến nguyên nhân cướp mất Linh của anh. Chiếc cavat Linh mua ngày ấy giờ nằm yên trong ngăn tủ với hàng bao kỷ vật khác: Khăn len, cuốn sổ, một mảnh mùi soa thêu... Trong suốt thời gian yêu nhau, Linh chưa bao giờ giận Duy, kể cả những lần anh lỡ hẹn (vì có việc đột xuất) hay những lần anh đến trễ giờ. Nếu thấy lâu lâu anh không tới, Linh lại cuống quýt đến tìm: "Duy hư lắm đấy nhé. Linh cứ tưởng là Duy bị ốm, Linh lo cuống cả lên...". Có một đôi lần Linh dỗi, nhưng Linh có cách trừng phạt riêng, không ngúng nguẩy quay đi hay bỏ về mà sẽ mím chặt đôi môi hồng xinh xắn, ngăn cản nụ hôn của Duy. Nhưng chỉ được vài phút. Duy chưa bao giờ phải khổ sở chạy theo năn nỉ, dỗ dành Linh. Cũng chính vì thế, anh yêu Linh hơn tình yêu của tất cả thế gian này cộng lại... Không phải Vân không biết trước cô, Duy đã yêu một người con gái khác. Giá như Vân chỉ bằng lòng biết đến đấy thôi, mặc kệ Duy với những gì thuộc về quá khứ, mặc kệ Duy với những kỷ niệm của riêng mình thì có lẽ Duy sẽ bớt đi những lúc đi về giữa quá khứ và hiện tại, sẽ gạt bỏ được những so sánh ngoài ý muốn. Và biết đâu anh lại tìm thấy tình yêu cuồng nhiệt, đắm đuối hệt thuở xưa ở Vân. Nhưng mọi chuyện lại không như thế. Vân đòi biết quá nhiều. Thoạt đầu chỉ là "Tên của chị ấy là gì hả anh?" và Vân xuýt xoa: "Em thích cái tên Thuỳ Linh lắm. Anh tin không, ngày nhỏ em có con bạn thân là Thuỳ Linh, bao nhiêu lần em khóc đòi bố mẹ đổi tên cho mình". Vân bảo: "Ai chẳng có những kỷ niệm. Em không hờn ghen với kỷ niệm của anh. Nhưng có điều, đừng sống mãi với kỷ niệm anh nhé". Lúc ấy nhìn Vân thật buồn và tội nghiệp. Duy cồn cào, anh thấy yêu và thương Vân thành thật, yêu một dáng hình, một tâm hồn, một tấm lòng biết cảm thông, chia sẻ. Vân đã khóc khi anh kể cho cô nghe vì sao anh mất Linh... Thế nhưng tại sao anh càng cố gắng không khơi dậy kỷ niệm thì Vân càng dồn ép, đoụi anh phải kể về Linh nhiều hơn. Và càng biết về Linh thì Vân càng hay giận dỗi, so bì, trách móc. Anh không thể chịu nổi điệp khúc căn vặn "Anh có yêu em không?" và những câu hờn mát đến độc địa của Vân "Em chỉ vụng veà thế thôi. Em biết, anh chẳng yêu em nhiều". Duy không biết thanh minh nhiều, anh lại tìm đến với Linh trong kỷ niệm như một sự cứu rỗi. ... Linh bảo: "Một ngày nào đó không còn thấy yêu Linh, Duy cứ đi yêu người khác mà Duy thích. Chỉ có điều phải thành thật mà nói lời chia tay. Đừng lừa dối Linh". Duy véo mũi Linh, mắng: "Chỉ vớ vẩn thôi. Mình sẽ là của nhau đến trọn kiếp". Mắt Linh thoáng buồn "Linh muốn thế nhưng cuộc đời thì nhiều biến động...". Duy át đi: "Giả sử Duy yêu người khác, Linh chấp nhận chia tay, thế hoá ra Linh không yêu Duy". Linh bảo: "Linh sẽ buồn, sẽ đau lắm chứ nhưng nếu Duy hạnh phúc bên người khác hơn bên Linh thì...". Tại sao Linh lại có linh cảm chẳng lành về số phận, về tình yêu như thế? Để rồi chỉ ít lâu sau, anh phải gục đầu khóc trước những vòng hoa trắng, khóc giữa những đêm ngồi nghe bản nhạc quen thuộc một mình lẫn với tiếng mưa gõ nhịp đều đều, đều đều. Duy lại đến tìm Vân như sau hàng bao lần giận dỗi trước đó. Thủ tục làm lành khó khăn hơn nhưng rồi cũng xong xuôi. Hai đứa lại đi dạo trong công viên. Mùa thu, hoa sữa thơm dịu dàng và quyến rũ. Những bông hoa nhỏ xíu rớt xuống nền gạch đỏ như sao sa. Tóc Vân thấp thoáng hoa sữa trắng ngà. Duy vòng tay qua thành ghế đá, mơ màng nhìn lên vòm lá. Hình như có một tiếng chim chiếp chiếp tội nghiệp đâu đây. Dường như Vân hỏi anh câu gì đó nhỏng Duy vẫn mải tìm kiếm xem tiếng chim kêu ấy ở chỗ nào. Chắc chắn đó phải là chú chim sâu nhỏ thật dễ thương. Thế mà ngày bé, bao nhiêu lần anh mang súng caosu lêu lổng khắp các khu vườn... Chợt Vân giật tay lại, ngoắt người đi, giận dỗi. Duy giật mình, ngắt khỏi những suy nghĩ lan man: "Gì thế em?" Vân quay lại, nét mặt trở nên cau có: "Em biết mà, anh không thể nào khác đi. Anh lại nghĩ, lại nhớ, lại tiếc tình-yêu-cũ-của-anh rồi phải không?" Duy thất vọng, cúi đầu không nói. Vân vẫn không tha: "Hèn gì em hỏi anh đến ba lần mà anh không trả lời". "Em hỏi anh gì vậy? Anh im lặng cũng là một cách trả lời đấy chứ". Vân nhìn sững Duy, nghẹn ngào: "Anh không yêu em phải không. Ngồi với em mà anh chỉ nghĩ đến chị Linh...". Duy cắn môi đột ngột "ừ! Anh yêu Linh và yêu Linh mãi mãi". Vân bật khóc, cầm túi xắc rồi bước đi như chạy. Duy không đuổi theo như bao lần trước đó. Anh nhìn theo cô rồi buồn buồn nghĩ: Chắc là chẳng khi nào mình gặp lại Vân để làm lành nữa... Ôi! Ngày xưa, Linh thường mặc áo xanh, Linh thường đi thong thả...