Truyện Ngắn và Thơ!

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Phúc Thịnh, 19/4/12.

  1. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ánh mắt[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trâm Nguyên Ý Anh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ông Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình. Bây giờ thì khác rồi.

    Theo quy định chung thì mỗi khi ra vô, cánh cửa rào bằng sắt dày năm ly kia phải được đóng lại và ổ khóa tự động sẽ thay thế con người, chốt chặt. Muốn mở cửa phải bấm chuông, mà cái chuông thì được đặt ở vị trí cao hơn tầm tay mấy đứa con nít hay nghịch phá trong xóm. Khi nghe tiếng chuông, người trong nhà sẽ mở cửa. Đó là cái mới nhất trong số những cái mới mà đám con ông tạo ra để chứng tỏ cho mọi người biết căn nhà của tụi nó là căn nhà hiện đại nhất xóm.

    Ngày xưa, lúc chân ướt chân ráo lên thành, ông cùng người vợ hiền tấm mẳn và đứa con gái lên năm phải ở đậu trong chùa. Tay trắng, ông bắt đầu bằng chiếc xe lôi đạp. Bà Nhâm vợ ông lại là người phụ nữ quá thật thà chất phác. Không bươn chải giúp chồng bằng việc bán buôn, bà phải đi giúp việc cho những nhà khá giả. Chỉ mấy tháng sau, ông bà mướn được một chỗ ở. Căn nhà của một cặp vợ chồng không con. Họ cho ông bà mướn để có thêm tiền cá mắm.

    Tuy là nhà mướn, có trả tiền đàng hoàng mỗi tháng nhưng vợ chồng người chủ nhà cũng lên mặt ta đây, ức hiếp đủ điều. Vợ chồng ông cố mà nhịn. Nhịn để được yên thân mà sống. Một bữa, ông Nhâm vừa kéo xe vô nhà (cái xe lôi đạp cũng mướn luôn, chớ ông chưa có tiền mua lại) đã thấy con Lục Bình ngồi khóc tức tưởi. Ông tra hỏi, nó vừa mếu máo vừa nói : “Bác Tư (chủ nhà) nói con lấy tiền của bác, con hổng có lấy...” Ông Nhâm nhìn mặt con, thấy có mấy vệt bầm, ông hỏi : “Sao mặt con lại như vầy?” Con bé vừa khóc, vừa đáp: “Bác Tư véo con, con hổng có lấy!” Ông Nhâm đau đớn nhìn con. Vừa lúc đó, người chủ nhà bước vô. Mặt y hơi tái lại khi thấy thái độ ông Nhâm. Ông gằn từng tiếng:

    - Anh có thấy con nhỏ lấy tiền không? Ai véo mặt con tôi tới như vầy?

    Tay chủ nhà còn ậm ờ chưa trả lời đã nhận một quả đấm như trời giáng vào giữa mặt. Máu từ mũi y chảy ra, y lảo đảo ngã ngửa vô vách nhà. Ông Nhâm vẫn gằn từng tiếng một:

    - Vợ chồng tôi phải nhịn anh để sống tạm sống nhờ nuôi con. Anh đối xử với tụi tôi sao tôi cũng nhịn. Nhưng nếu anh còn đụng đến con tôi, anh liệu hồn.

    Tay chủ nhà lần đầu thấy ông Nhâm nổi giận, y biết đã gặp tay chẳng vừa, chẳng thể ăn hiếp được. Từ đó về sau, gia đình ông Nhâm được sống yên lành. Hai năm sau, y kêu ông bán lại căn nhà rồi dắt vợ về Sài Gòn sinh sống. Bà Nhâm sanh thêm thằng Vạn Thọ và thằng Hồng Điệp lúc ông Nhâm đã mua được chiếc xe lôi gắn máy thay cho chiếc xe lôi đạp cũ kỹ ngày nào. Con Lục Bình được đi học và học rất giỏi. Nhưng khi bị mấy đứa bạn trong lớp chế nhạo cái tên quê mùa, nó lại giận hờn:

    - Sao ba má đặt tên con kỳ vậy? Ở trong lớp, mấy đứa bạn con tên rất đẹp nào là Nguyệt, là Thu, Ngọc Lan, Hoàng Cúc... chớ ai đâu lại tên Lục Bình.

    Ông Nhâm cười huề với con rồi giải thích:

    - Tại con lớn lên ở thành nên không biết bông lục bình nó đẹp tới chừng nào. Mấy thứ Cúc, Huệ, Hồng gì đó, làm sao đẹp bằng nó.

    - Thiệt hả ba? Chừng nào về quê, ba chỉ bông lục bình cho con coi nó đẹp tới đâu, nghe ba?

    Vậy là Tết năm đó, ông Nhâm về lại quê hương sau gần sáu năm xa cách. Con Lục Bình cứ ngẩn người ra trước màu tím phơn phớt và vẻ đẹp mộc mạc mà vẫn không kém phần quyến rũ của loài hoa đồng nội này:

    - Ba ơi! Bẻ bông đi ba, để con đem về cho cô cắm trên bàn giáo viên.

    - Nó lên khỏi nước chút xíu là héo liền. Có đâu mà đem về tới thành phố.

    Con Lục Bình tiu nghỉu. Từ đó, nó không còn thắc mắc về cái tên Lục Bình quê mùa kia, mà nó còn lên giọng nữa là:

    - Tụi mày mà thấy bông lục bình tao dám chắc tụi mày cũng mê luôn.

    Năm đó, con Lục Bình đang học lớp năm. Nó đã sớm chứng tỏ mình là đứa con gái bản lĩnh.

    Nhờ chiếc xe lôi gắn máy, nhờ tánh siêng năng cần mẫn của vợ chồng ông Nhâm nên ba đứa con cũng được ăn no mặc ấm và được đi học đàng hoàng.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] *[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]
    Bà Nhâm qua đời lúc con Lục Bình vừa lên lớp mười hai. Bà bị ung thư ruột nhưng vì quen chịu đựng, chuyện gì cũng cố chịu một mình nên khi phát hiện, bà chỉ còn sống được bốn tháng. Không còn mẹ, Lục Bình lại là người quán xuyến gia đình. Càng lớn, nó càng lộ rõ bản tính cứng cỏi và quyết đoán của mình. Nó mà muốn làm gì có trời mới cản được. Nó thương ông Nhâm chớ chẳng không, nhưng lại thích làm theo ý nó. Nó càng lớn, càng học cao, ông Nhâm càng nhượng bộ. Ông muốn nó làm cô giáo, nó lại học kinh tế. Ra trường với thứ hạng cao, nó vào làm việc cho một công ty lớn. Việc đầu tiên, nó bắt ông thôi chạy xe.

    - Ba nghỉ chạy đi, con nuôi ba được mà!

    Ông Nhâm thấy mình vẫn còn lao động được nên không muốn ở nhà. Tưởng con thương mình, sợ cực khổ, ông giải thích:

    - Ba mới năm mấy tuổi, già cả gì đâu ! Để ba chạy thêm vài năm nữa cũng được mà!

    Không dè, con Lục Bình đã thẳng thừng:

    - Con đi làm cũng có mặt mũi trong xã hội. Ba chạy xe lôi, rồi người ta coi con ra gì nữa!

    Ông Nhâm như từ trời cao rơi xuống. Ông không dè đứa con ông đã nuôi bằng những đồng tiền mồ hôi nước mắt từ chiếc xe lôi cà khổ kia để nó được vào đại học, được bằng này bằng nọ với người ta, bây giờ chính nó lại rẻ rúng khinh khi cái nghề của ông. Rồi ông nhớ lại hồi còn ở quê, có ông người Hoa giàu nhất xã. Ông có mấy nhà máy xay lúa, ruộng đất hàng trăm công, nhà cao cửa rộng vậy mà khi bước vào nhà, người ta thấy trên bàn thờ ba ông có treo cây đòn gánh. Ông thường giải thích: “Ba ngộ lúc ở bên Tàu qua cũng nhờ cây đòn gánh này đi mua đầu chợ bán cuối chợ nuôi con. Sau này giàu có rồi, ông vẫn nhớ ơn cây đòn gánh đã một thời cực khổ với ông. Ngày sắp chết, ông trối lại phải thờ cây đòn gánh với ông, như hai người bạn”. Người ta thì như vậy đó, có nghĩa, có tình... đâu như con ông: đặng cá quên nôm, đặng chim quên ná.

    Cuối cùng, không vượt qua được “quyền lực” của đứa con gái bản lĩnh, ông Nhâm kêu người bán chiếc xe lôi. Lục Bình nuôi ba chu đáo lắm: từ cái ăn, cái mặc ông không thiếu gì hết mà dường như chỉ thiếu... chút tình. Căn nhà lúc nào cũng sạch sẽ, ngăn nắp. Nhưng ông Nhâm thì như ở tù. Suốt ngày, ông không mấy khi được ra khỏi nhà. Sáng ăn uống rồi mở tivi, canh điện thoại cho nó. Ai gọi, ghi tên hoặc lời nhắn. Chờ mở cửa cho tụi nó vô nhà. Có lần, ông khóa ngoài cửa và lang thang ra quán cà phê đầu hẻm nói chuyện cùng ông bạn già ngày xưa cũng chạy xe lôi. Con Lục Bình về ngang có vẻ không bằng lòng. Ông vào nhà, nó nói một hơi:

    - Bây giờ, ba khác xưa rồi. Lang thang ra cái chỗ bát nháo đó làm gì! Nhà mình, mình ở. Ba cứ tiếp xúc với mấy người đó chỉ thêm phiền phức. Mà ba tuyệt đối không mời mấy người đó vô nhà mình nghe! Lỡ xảy ra mất mát, ba không gánh nổi đâu.

    Vậy là từ bữa đó, ông Nhâm cũng không còn chỗ để xả hơi. Lục Bình mua cho ông mấy băng dĩa cải lương để ông coi đỡ buồn. Thỉnh thoảng, nó đưa ông đi ăn ở những nhà hàng sang trọng. Hai thằng con trai, đứa năm đầu, đứa năm cuối đại học. Tụi nó vẫn là những đứa con xứng đáng và ông vẫn là một “con chim già” được nuôi kỹ càng trong cái lồng son. Chỉ riêng bữa nay ông được đi đám giỗ nhà ông trưởng khu phố. Lục Bình đưa ông tận nơi và dặn ông chờ nó đón về. Ông ngồi hoài thấy ngại nên thả bộ chầm chậm về nhà. Giờ này chắc nó đang nghỉ trưa. Ông với tay bấm chuông. Thằng Vạn Thọ ra mở cửa. Nó thấy mặt ông Nhâm có vẻ nhợt nhạt. Ông chầm chậm ngồi xuống băng đá đặt ngoài hàng ba. Thằng Vạn Thọ rót cho ông ly nước:

    - Sao ba không chờ chị đi rước?

    - Ba ngồi lâu quá thấy kỳ nên đi bộ. Bây giờ hơi mệt.

    Lục Bình từ trong bước ra. Nhìn thấy ông Nhâm, nó có vẻ không bằng lòng.

    - Đã nói cứ ở đó, con đi rước. Đi như vậy hàng xóm người ta quở trách tụi con. Nhà mình đâu phải không có xe.

    Ông Nhâm nghe đau nhói trong lòng. Thì ra, nó chỉ sợ người ta cười, sợ người ta tưởng nhà không có xe chớ nó đâu nhìn thấy ba nó mệt muốn đứt hơi. Lục Bình thay đồ đi làm. Nó cũng hoài nghi về sức khỏe ông Nhâm. Vừa dắt xe ra đến cổng, nó quay lại:

    - Chiều nay con đưa ba đi bác sĩ, ba lên lầu nghỉ đi!

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] *[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]
    Sự thật thì ông Nhâm không có bệnh, chỉ vì thiếu vận động nên ông không thích nghi được môi trường bên ngoài. Bác sĩ khám và hỏi qua về hoàn cảnh sống của ông rồi kết luận:

    - Cô phải để bác có thì giờ vận động cơ thể, ở hoài trong nhà không tốt đâu. Tốt nhất là ông phải sinh hoạt trong một câu lạc bộ dưỡng sinh. Người già mà sống cô đơn dễ sinh bệnh lắm.

    Lục Bình đưa ông Nhâm về và vẫn không đồng quan điểm với bác sĩ. Nó cho là ba nó không cô đơn. Nó vẫn lo ăn lo mặc và quan tâm tới ông mà. Tuy vậy, nó cũng đề nghị:

    - Hay là mỗi sáng ba đi tập thể dục cho cơ thể có vận động. Nhưng đừng ra đường vào buổi trưa, cũng đừng la cà ngoài xóm, không tốt đâu.

    Vậy là ông Nhâm được thư thả mỗi sáng. Ông dậy lúc năm giờ, nấu nước châm trà, uống vài ly rồi ông mở cửa ra đi lúc cả nhà còn ngủ. Ông thấy vui.

    Buổi sáng mờ sương làm ông nhớ lại cái thuở còn chạy xe lôi. Ông được hít thở không khí trong lành, được chuyện trò với ông bạn già ngày nào. Đi tập được gần một tháng, ông Nhâm có thêm một người bạn đó là bà Năm bán xôi nhà trong hẻm đối diện. Bà Năm đã ngoài sáu mươi và vừa qua một cơn tai biến mạch máu não. Bà đi đứng vẫn còn khó khăn và mỗi ngày, đứa con trai út vẫn cùng đi tập với bà. Nhìn cảnh hai mẹ con đi lại nói cười, ông Nhâm cũng vui lây. Qua người bạn, ông biết bà Năm nghèo lắm. Mấy đứa con lớn có gia đình đã ở riêng. Chỉ còn bà với thằng Út, nó đang học nghề điện ở một trung tâm. Buổi tối còn tranh thủ đi bán hàng ở một siêu thị mãi đến khuya mới về. Sáng nào nó cũng dậy sớm đưa mẹ đi tập thể dục. Ông Nhâm nghe thèm hạnh phúc của bà Năm. Mấy đứa con ông giờ này chắc còn ngủ. Tụi nó có những việc chỉ tụi nó mới biết. Ông nhớ lại lúc nhà vừa cất xong. Ông đề nghị đặt bàn thờ ở nhà dưới đúng như xưa giờ vẫn vậy. Bước vào nhà, phải nhìn thấy cái bàn thờ ông bà, căn nhà mới ấm cúng. Lục Bình phản ứng như ông vừa chạm phải điều nó kiêng kỵ nhất:

    - Bàn thờ đặt trên lầu. Phòng này là phòng khách, ai lại bày chương ướng cái bàn thờ như ở quê, coi sao được?


    Ông Nhâm đành phải nghe theo nó, mấy tấm ảnh thờ cũ đã vàng ố, nhưng đó là cái gì còn sót lại của quá khứ nghèo nàn của ông. Mấy ngày sau, con Lục Bình đem từ đâu về ba tấm ảnh mới tinh. Ông bà nội nó với những bộ đồ Tây, áo dài thêu nhìn lạ hoắc. Còn bà Nhâm, ngồi chễm chệ trong salon, cổ và tay đầy những vòng vàng. Ông Nhâm chưa mở miệng, Lục Bình đã “ra lệnh”:

    - Ba đem mấy cái hình cũ xuống đi! Con đã đặt người ta làm “vi tính” mấy tấm hình này. Cái nhà đẹp, bàn thờ đẹp mà để mấy cái hình xấu hoắc đó, coi làm sao được. Mà ba cũng không được đốt nhang, khói bay đen trần nhà hết. Con mua ba cây nhang điện cắm vào thì tiện lợi hết chỗ nói.

    Cái bàn thờ với những tấm hình xa lạ như chẳng phải người thân của mình làm ông Nhâm buồn rầu mấy bữa nhưng rồi phải ráng làm quen, ông gói ba tấm hình cũ lại. Những lúc không có con Lục Bình ở nhà, ông lại mở ra coi.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] *[/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]
    Vừa đi làm về, chưa kịp thay đồ, Lục Bình đã chạy quáng quàng lên lầu:

    - Ba đâu rồi? Con hỏi ba chuyện này coi!

    Ông Nhâm đang lau bàn thờ, ngạc nhiên quay lại, chưa kịp hỏi, Lục Bình đã nói một hơi:

    - Có phải ba quen thân với bà bán xôi ở hẻm bên kia phải không? Người ta đồn ầm lên cả xóm. Sao ba lại “sanh tật” vậy?

    Ông Nhâm ngạc nhiên nhìn chăm chăm Lục Bình rồi từ tốn:

    - Ai nói với con kỳ vậy? Ba đi tập thể dục, bà Năm cũng đi tập thể dục. Nói vài ba câu là chuyện bình thường, có gì đâu.

    Lục Bình nhìn ông khó chịu:

    - Mấy người “bá vơ” đó, ba cũng thân mật, hèn gì người ta không nói sao được!

    - Con lấy tư cách gì nói người ta “bá vơ”? Người ta nghèo nhưng tư cách chưa chắc ai bằng. Đừng đánh giá con người qua hình thức bên ngoài nghe con.

    Lục Bình tức nghẹn. Chỉ vì người đàn bà đó mà ba “lên lớp” nó. Nó dùng dằng bỏ xuống nhà. Ông Năm cũng buồn. Đứa con gái ông thương yêu nhất và cũng lớn lên từ trong cái nghèo. Bây giờ, nó lại khinh khi những người đã từng nghèo như ba má nó.

    Lục Bình không phải là đứa dễ nghe ai. Nó tìm đến nhà bà Năm vào một tối. Căn nhà nhỏ, có rào và trông rất sạch đẹp đã làm hạ bớt cái kiêu căng trong lòng đứa con gái lúc nào cũng thấy chẳng ai bằng mình. Bà Năm đang ngồi trong cái ghế dựa, hai chân ngâm trong thau nước thuốc. Thằng Út ngồi bẹp dưới gạch đang xoa bóp bắp chân cho mẹ. Mẹ con nói cười với nhau vui vẻ lắm. Lục Bình vẫn đứng quan sát. Nó bỗng nhớ lại hình ảnh má nó trong một lần bị trặc chân. Lúc đó, nó cũng ngồi bẹp xuống nền đất, ôm lấy chân má mà bóp thuốc rượu. Hình ảnh gia đình này đã khiến nó nhớ tới ba. Đã bao lâu rồi, nó không còn ngồi nói chuyện và cười vui với ba. Mỗi lời nói nó chỉ là “lịnh”. Có bao giờ nó để ý coi ba thích cái gì đâu. Tiền bạc cả đời dành dụm của ba, nó chỉ thêm vào một ít và căn nhà đã trở thành của nó. Ba không được quyền góp ý. Nó bỗng nghe một nỗi ân hận dâng lên trong lòng. Thằng Út đứng dậy, bước qua bàn bưng lấy tô cháo và cũng trong tư thế ngồi dưới đất, cậu đút từng muỗng cho mẹ. Lục Bình quay đi, nó chạy qua con hẻm dài, cố kìm để nước mắt không rơi. Nó bấm chuông, thằng em ra mở cửa. Nó bước vội lên lầu. Ông Nhâm đang cầm tấm ảnh cũ mèm của bà Nhâm đưa lên ngắm. Lục Bình khẽ khàng ngồi xuống bên ông:

    - Ba ơi! Tha lỗi cho con nghe ba! Con vẫn là con Lục Bình của ba mà!

    Ông Nhâm quay lại. Ông chợt nhớ như in cái ngày ông đấm chúi nhủi thằng chủ nhà, ông cũng thấy con Lục Bình nhìn ông như vậy.
    [/FONT]
     
    Chỉnh sửa cuối: 2/5/12
  2. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ảo tưởng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đào Thị Mộng Tuyền[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hắn điện thoại cho tôi sau hai mươi ba năm không gặp, với câu nói :"Ngày ấy anh đã yêu em biết bao, mà không bao giờ dám nói...". Tôi hơi sững người, nhưng với bản tính hay giễu cợt tôi trấn tĩnh ngay :"May mà ngày ấy anh đã không nói, biết đâu bây giờ anh khỏi cảm thấy hối tiếc" - "Tại sao?" "Tại vì em bây giờ tàn tạ, xấu xí, và lắm điều...".

    Hắn nói nhiều, rất nhiều, để bù lại hơn hai mươi năm không được nói với tôi, hắn bảo vậy.

    Những ngày sau đó hầu như ngày nào hắn cũng gọi điện thoại tôi. Ðiện thoại đường dài và số tiền cước hình như không ảnh hưởng gì đến hắn, có khi hắn nói, có khi hắn im lặng, mỗi ngày hai ba lần gọi, mỗi lần gọi không ít hơn 15 phút. Tôi bảo hắn :"Chắc là bưu điện phải cám ơn em nhiều lắm lắm...". Hắn phàn nàn rằng tôi hay nói đến tiền bạc. Biết nói gì với hắn bây giờ khi tôi chỉ là một người phụ nữ, rất phụ nữ với bao nhiêu năm xoay quanh bếp lửa gia đình, lo toan trong cuộc sống đầy ắp những bận bịu đời thường: đi làm, chợ búa, cơm nước, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc bọn trẻ...

    Ban đầu ý tưởng về hắn trong tôi chỉ là những câu nói đùa bông lơn nhưng rồi những cú điện thoại của hắn xáo trộn cuộc sống của tôi - xáo trộn mặt hồ yên bình, rất yên bình. Tôi bắt đầu suy nghĩ về hắn, bắt đầu nhớ lại những gì đã qua của một ngày xưa xa lắc.

    Tôi quen hắn khi tôi ghi tên vào đội bóng bàn của trường. Nhà trường bố trí hắn tập cho tôi. Tuổi mười sáu, hắn là một thần tượng: hắn đỡ dập, rờ-ve của tôi và kết thúc là tôi phải đi lượm banh. Tôi chẳng đoạt được một giải nào cho trường trong khi hắn ôm về bao nhiêu là giải thưởng.

    Hắn kể với tôi những điều mà tôi lục hoài trong trí chẳng nhớ nổi: hắn và tôi thường len lén bạn bè trao vội cho nhau một vài dòng chữ vẩn vơ, hắn bảo cho đến bây giờ hắn vẫn còn giữ (?). Hắn nói với tôi những điều mà một con người thực tế như tôi chẳng thể nào tin được: Hắn luôn mang hình bóng tôi đi suốt hơn hai mươi năm bôn ba khắp chốn, tôi là mối tình đầu tiên của hắn mà hắn không bao giờ quen được... Tất cả những điều đó dĩ nhiên dù không tin nhưng tôi vẫn cảm thấy một chút hài lòng nho nhỏ, một sự hài lòng của một người bao nhiêu năm chôn vùi ký ức để đối phó với những khó khăn của đời thường. Duy chỉ có một điều tôi hơi buồn lòng là hắn luôn nói rằng vợ hắn rất dễ thương - nó cứa vào sự ích kỷ của một người phụ nữ.

    Tôi bắt đầu có những đêm mất ngủ để suy nghĩ về những cú điện thoại của hắn, bắt đầu có những giờ phút chờ chuông điện thoại reo, bắt đầu tự hỏi: có chuyện gì không mà chiều này không thấy hắn gọi, mình đã nói những gì vô ý với hắn hay là có chuyện gì đã xảy ra VỚI HẮN... Ở CƠ QUAN MỌI NGƯỜI BẮT ĐẦU THAN PHIỀN LÀ tôi hay có những cuộc nói chuyện lâu trên điện thoại, chồng tôi cũng bắt đầu thắc mắc về những cú điện thoại mà mỗi khi anh bắt máy là đầu dây bên kia cúp máy. Con người hiện tại trong tôi kêu lên: Bắt đầu rắc rối đây. Con người quá khứ của tôi thì bảo: Cứ nghĩ về hắn, để tô điểm thêm cho cuộc sống, cuộc sống vốn dĩ đã chẳng quá khô khăn, đơn điệu đó sao?

    Hắn gửi cho tôi một món quà sinh nhật, tôi thật bàng hoàng vì hắn còn nhớ đến ngày sinh của mình. Những đĩa hát, toàn là những bài tôi thích. Tôi tự nhủ thầm: cuộc sống bình yên của tôi bắt đầu chấm dứt rồi đây. Ðầu óc tôi đầy ắp những suy nghĩ về hắn: tò mò, thắc mắc và tự nhiên trong tôi có một cảm giác như những ngày xưa khi mới biết thế nào là tình yêu.

    Hắn gửi cho tôi hai tấm vé máy bay chưa đăng ký ngày giờ, hắn muốn gặp tôi, rất nôn nóng gặp tôi. Công việc của hắn không cho phép hắn bỏ đi. Tôi ngần ngại, tôi chần chừ, tôi cũng muốn đến nơi hắn ở, cũng muốn thấy hắn bây giờ ra sao. Tôi lưỡng lự, tôi lo sợ, tôi lại có những đêm mất ngủ vì hai tấm vé máy bay của hắn. Cuối cùng tôi quyết định, phải gặp hắn một lần để tìm ra đáp số cho bài toán.

    Không thế nào nhận ra hắn giữa đám đông người hỗn độn chen chúc ở phi trường. Nhung hắn nhận ra tôi, vì theo như hắn bảo, bao nhiêu năm qua tôi vẫn không thay đổi mấy...

    Tôi quan sát từ đầu đến chân và không thể nào tin đây là hắn: một con người mập mạp, trắng trẻo (biểu hiện của sự thành đạt), vòng bụng căng tròn, tròn hơn tôi tưởng rất nhiều, không còn là thần tượng một thời của tôi. Nhìn hắn tôi bỗng nhiên thèm nhớ biết bao vòng bụng thon và bộ ngực chắc nịch của chồng tôi, bộ ngực mà mỗi lúc vui các con tôi hay bắt bố chúng gồng lên cho chúng đấm vào. Tôi nói với hắn :"Lúc em đi thằng cu con hơi sốt, suốt thời gian ngồi trên máy bay tự nhiên em nóng ruột quá, chắc em nhờ anh đăng ký vé cho em quay về chiều nay". Hắn mở to tròn con mắt ngạc nhiên. Tôi nhớ đến hắn ngày xưa có một đôi mắt rất đẹp với cái nhìn sâu thăm thẳm, làm mềm lòng người. Bây giờ hắn chỉ còn có đôi mắt, tôi không dám nhìn vào đôi mắt làm mềm lòng người khác của hắn. Chiều nay tôi phải bay về ngay với gia đình mình. Giá mà tôi đừng gặp hắn, cứ để cho những đêm không ngủ nhớ về những ngày thật đẹp trong quá khứ. Cuộc sống vẫn có nhiều mâu thuẫn ngay chỉ trong một con người.

    Tôi nhớ lại một câu nói của một người nào đó :"Nếu phải chuyển đi đến một hành tinh khác chỉ có hai người, em cũng không lấy anh..."
    [/FONT]
     
  3. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cô đơn trên mạng [/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lưu Quang Minh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi bắt đầu việc viết Blog không nhằm mục đích để tìm kiếm sự nổi tiếng hay đại loại là sẽ được nhiều người biết đến. Viết Blog đơn giản chỉ là cách tôi giãi bày tâm sự.
    Cũng phải nói ngay rằng tôi không phải là “Hot girl” - một mỹ từ mà các bạn thường dùng để chỉ những avatar dễ thương trên Blog của nhiều bạn nữ xinh xắn. Vâng, trên cõi đời này tôi chỉ là một đứa con gái tầm thường, thậm chí có thể gọi là xấu xí.
    Nhưng tôi vẫn viết Blog như tất cả các bạn, để không phải chôn sâu mãi mãi nỗi lòng của mình – nỗi lòng của một con bé mới 17 tuổi.
    Ngày thứ nhất làm Blog. Đó là một ngày u ám. Tôi đã khóc rất nhiều khi viết dòng Entry đầu tiên trên Blog của mình: “Tôi cô đơn, cô đơn hơn hết thảy mọi sinh linh từng tồn tại. Mỗi ngày, tôi đi học về và chui vào góc tối nhất trong căn phòng mình. Hết sức lẻ loi và trơ trọi. Đôi khi, tôi tự hỏi mình sinh ra để làm gì? Sinh ra để hứng chịu đau khổ, cô độc và cuối cùng là chết đi sao?”
    Chỉ viết được như thế, sau đó tôi quyết định đặt tên cho Blog là Cô đơn trên mạng. Phải, ở đâu thì cũng vậy, chui rúc vào góc nào rồi cũng vậy, thậm chí là trong thế giới ảo, nào có ai thoát được nỗi cô đơn. Rất nhiều người ngại đối mặt với nó, rất nhiều người lảng tránh nó. Nhưng với tôi, nó là một điều quá đỗi bình thường, một tất yếu, một phần của chính cơ thể và linh hồn mình. Cố gắng cười, cố gắng vui, tất cả chỉ là giả tạo mà thôi. Vì vậy, rất nhiều lần tôi lại cười thầm đầy chế nhạo khi tình cờ liếc qua một Blog nào đó. Chủ nhân của nó, họ sợ hãi và hèn nhát khi cảm thấy đơn độc. Nên có lẽ vì thế chưa bao giờ họ được là chính mình.
    "Lại một ngày trôi qua. Cuộc sống sao mà ngột ngạt và vô nghĩa. Hôm nay ba lại đánh má. Cứ nhậu xỉn là ba lại quên mất mình là ai. Tôi không tin được một người cha mà tôi hằng kính yêu ngày nào giờ đây lại thành ra như vậy. Má cố nén tiếng nấc. Chắc má không muốn tôi nghe thấy má khóc. Nhưng tôi cũng đang khóc. Giá mà tôi bị mù, câm và điếc. Có lẽ còn tốt đẹp hơn là một người bình thường.”
    Dạo này bắt đầu có nhiều người ghé vào Blog của tôi. Tất cả đều thắc mắc về tên Blog. Họ hỏi tôi tại sao lại là Cô đơn trên mạng. Tôi đáp lại tỉnh rụi và hỏi giật lại: “Cảm thấy như vậy, có sao không?”. Họ cười xòa. Tôi cũng cười.
    “Ba không thương má. Ba không thương tôi. Ba chẳng thương ai hết. Ba chỉ muốn làm sao để má con tôi phải đau đớn mà chết hết. Có như thế ba mới vừa lòng.”
    Tôi lên mạng thường xuyên hơn rất nhiều so với trước đây. Dường như tôi đang dính vào một hội chứng được gọi là “nghiện Blog”. Dân mạng vẫn thường truyền nhau câu cửa miệng : “Ăn Blog, ngủ Blog, uống cũng Blog…”. Nói đến đây, tôi rủa thầm : “Hết chuyện, may mà bọn nó chưa nghĩ ra… đi vệ sinh cũng Blog nốt”. Và lại cười một mình.
    “Nếu không còn tình yêu thì sống với nhau để làm gì? Tôi nghe nói hết yêu nhau người ta lại muốn làm khổ nhau nhiều hơn. Thì đầy ra đó các cặp tình nhân, khi yêu thắm thiết miệng lúc nào cũng thề non hẹn biển, đến khi chán rồi chia tay lại xem như kẻ thù. Cuộc đời thật xấu xa!”
    Hôm nay một tên hỏi tôi: “Bạn viết Blog kiểu gì mà kinh dị thế. Nghe sao mà chán đời quá!”. Tôi bộp lại: “Ừ, đây đang chán đời. Có phiền một kẻ yêu đời như bạn không?”. Thế là hắn rêu rao một mớ triết lý rỏm. Nào là đời thì rất đáng sống. Nào là cuộc đời ai cũng có thăng có trầm, rằng là phải sống cho mình và cho người khác, vân vân và vân vân. Nghe… buồn nôn không chịu được. Nhưng cũng từ đó, hắn xuất hiện thường xuyên hơn trên Blog của tôi. Tôi chẳng màng.
    “Má ôm tôi thật chặt. Tuy im lặng nhưng tôi biết má đã rất khó khăn để quyết định. Cố gắng lắm má mới hỏi được: “Con sẽ sống cùng với má chứ?”. Lúc đó, tôi cảm thấy thương má vô cùng.”
    Khi ở trên mạng, người ta không thể trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Tất cả chỉ được thông qua những con chữ và các biểu tượng đặc biệt. Muốn bảo rằng mình đang cười thì đánh vào biểu tượng mặt cười. Muốn khóc thì dùng mặt khóc. Dần dần quên mất là mình chẳng khóc chẳng cười nhưng vẫn cứ lấy các biểu tượng đó ra, tôi hơi giật mình. Để rồi lòng tự hỏi lòng, có bao giờ ai đó đang khóc nhưng vẫn dùng mặt cười hay không, và ngược lại đang cười mà vẫn lấy mặt khóc ra…
    “Tất cả hoàn toàn yên lặng. Không còn những tiếng mắng chửi, đánh đập của ba. Chẳng còn tiếng nấc nghẹn ngào của má cố gắng không bật lên quá to để tôi nghe được. Góc tối quen thuộc lần đầu tiên cho tôi cảm giác bình an. Tôi càng thu mình bé lại. Ừ thì, suốt đời người luôn luôn là cô độc.”
    Vẫn là cái tên đáng ghét ấy, tôi đụng gì đến hắn mà suốt ngày cứ nói với tôi thế này: “Cô đơn trên mạng à, nếu nghĩ rằng mình bất hạnh thì chưa chắc mình đã là người quá bất hạnh. Nhưng nếu bạn nghĩ bạn hạnh phúc thì bạn còn hạnh phúc hơn rất nhiều người”. Triết lý, triết lý, triết lý, suốt ngày một mớ triết lý rỗng tuếch. Thử hỏi, hắn có nghĩ như vậy thật không hay chỉ thuận miệng nói ra thôi.
    Cường độ đeo bám của hắn càng ngày càng dai dẳng. Đã có lúc tôi nghĩ chỉ cần gặp được hắn ngoài đời tôi sẽ “bụp” hắn ngay. Rồi tôi chợt nảy ra ý định phá lại hắn. Đúng vậy, tôi sẽ qua Blog của hắn và tối ngày lải nhải, để xem hắn có chịu nổi không.
    “Lạnh quá. Tôi bắt đầu thấy sợ. Ba và má phải kết thúc thật sao? Tuy tôi ghét ba nhưng thật lòng tôi không muốn ba ra đi. Tôi chỉ muốn gia đình mình được trở lại như xưa.”
    Hắn đặt cho Blog một cái tên lạ lùng như tên Blog của tôi vậy: Sống. Một kiểu chơi nổi chăng. Không, nếu muốn chơi nổi thì ít ra cũng phải đặt một cái tên thật kêu chứ. Ai lại phang ngay một chữ khó hiểu như vậy. Sâu xa, triết lý, đúng thật là cách của hắn. Tôi lao vào xem hắn viết gì trên Blog. Phải tìm hiểu thật kỹ trước khi “hạ gục” đối phương. Phen này, hắn chết chắc! – Tôi đắc ý.
    Nhưng những gì ghi trên Blog của hắn đã khiến tôi bàng hoàng: “Mình phải sống. Mình yêu cuộc sống. Mình khát khao được sống. Dù số phận có cay nghiệt đến mức nào ta cũng sẽ sống hết mình cho đến hơi thở cuối cùng.”
    Tôi lờ mờ một vài điều. Cái cách hắn nói với tôi về cuộc đời, về giá trị của hạnh phúc và khổ đau không hoàn toàn xuất phát từ một cái đầu sáo rỗng chỉ biết nhại theo người khác… Và tôi càng ngạc nhiên hơn khi biết hắn có rất nhiều người bạn – dù chỉ là ảo. “Cô đơn trên mạng, bạn ghé thăm Blog mình đấy à ”. “Ừ… phải, thưa anh Sống.”
    “À, mình đã đọc đi đọc lại rất nhiều những gì bạn viết trên Blog. Thật ra trước đây, có một thời gian mình cũng giống Cô đơn trên mạng.”
    Tôi cười khẩy. Hắn muốn nói đến cô đơn. Vậy là bây giờ hắn không còn cô đơn?
    “Tuy nỗi cô đơn phải gánh chịu một mình nhưng hạnh phúc thì cần được san sẻ. Mà hạnh phúc nào chẳng phải mua với ít nhiều đau khổ…”.
    Đọc Blog hắn toàn thấy triết lý. Hắn tính cứu rỗi cuộc đời bằng mớ triết lý đó hay sao. Không tin, tôi chẳng tin vào một cái gì cả. Toàn là giả dối. Nhưng… “Cô đơn trên mạng, hãy tin mình. Chúng ta có cách để hóa giải được lời nguyền cô đơn.”
    “Cảm ơn anh Sống. Tôi không cần ai… dạy bảo.”
    Rồi tôi quay về Blog mình, đọc lại từng dòng đã viết từ trước đến giờ mà nước mắt trào ra. Lời nguyền cô đơn, tôi thích từ đó.
    “Ba tôi dáng gầy, gương mặt xương xương. Tôi còn nhớ như in trong đầu ngày tôi cao chỉ đến đầu gối ba, mỗi lần ba đi làm về tôi lại chạy ngay đến xà vào lòng ông. Ba bế tôi lên nựng và đưa cho tôi một gói bánh: “Con gái ba ngoan nhất!”".
    Lạc lõng trước tất cả mọi tâm tình trên Blog của người khác, tôi vẫn cứ đi hết từ Blog này cho đến Blog khác. Chẳng một điều gì quen thân, gần gũi… nhưng tôi không dừng lại. Đọc để giết thời gian và để quên cõi lòng quạnh quẽ, u tối như bầu trời đêm không một ánh sao là cách mà tôi thường làm. Vậy mà, dường như chẳng đến đâu cả, cô đơn vẫn hoàn cô đơn. Nỗi tuyệt vọng trong tôi càng lúc càng lớn, phút chốc vây kín, bao trùm, khiến cho tôi phải ngạt thở. Tôi sợ… sợ lời nguyền cô đơn!
    “Ba đi thật. Phút cuối, ba vẫn hỏi má: “Con đâu rồi?”. Má im lặng, không còn muốn nói thêm một lời nào với người chồng thiếu xứng đáng ấy. Tôi cũng im lặng – như mọi khi – trong góc tối này, chờ đợi một phép màu. Giá mà mọi chuyện chỉ là cơn ác mộng thôi.”
    Sống vào Blog tôi đều đặn. Tôi cảm nhận được anh là người duy nhất còn lắng nghe mình. “Khi tất cả bạn bè đều bỏ ta đi, người vẫn còn ở lại mới đúng là tri kỷ” – Tôi đọc thấy ở đâu đó câu nói ấy, có lẽ cũng từ trên những Blog mình từng viếng thăm. “Gặp” tôi, Sống nói: “Cô đơn trên mạng ơi, chỉ có một thứ duy nhất có thể hóa giải lời nguyền. Bạn hãy qua Blog mình đi.”
    Tôi lắc đầu nguầy nguậy. Chấm hết rồi những tháng ngày êm ấm, hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của cả ba và má. Tìm đâu nữa cái gọi là niềm tin. Sức mạnh nào tôi được tiếp thêm để đủ nghị lực mỗi khi gục ngã. Tôi chỉ biết “ước chi”, biết “giá mà” không biết bao nhiêu lần cốt nhằm thay đổi một sự thật không bao giờ lay chuyển. Anh an ủi được tôi ư, anh Sống?
    Vẫn cố gắng, Sống tiếp tục giục tôi. Tôi cười. Cười người hay tự cười mình, tôi cũng không rõ nữa. Khóc nhiều quá, giờ lại muốn cười. Cười nhiều quá, để rồi cay đắng khóc thầm bên trong.
    “Mưa rả rích ngoài hiên. Mưa là nước mắt của trời. Trời có mắt, nhưng chỉ để khóc thôi.”- Đây là dòng Entry đầu tiên Sống viết trên Blog. Rất giống cái cách mà tôi mở đầu công việc viết Blog của mình. Tôi nghiêm túc đọc từng dòng, từng lời, từng tâm sự trên Blog Sống. Một việc tôi tin rất đáng làm để cảm ơn anh – tri kỷ.
    Sống viết: “Hôm nay tôi đến bệnh viện để kiểm tra lần cuối. Sự thật là sự thật, tôi sẽ lìa xa cuộc đời một ngày gần đây. Nhưng tôi yêu cuộc sống. Đó là lý do tôi đặt cái tên này cho Blog.”
    Đã có một linh cảm khi đọc những dòng anh viết, nhưng tôi không dám nghĩ đến chuyện xấu nhất. Tôi dần hiểu ra tại sao anh có nhiều bạn đến vậy. Họ yêu mến anh, vì anh có nhiều hơn một chữ Sống.
    “Anh Sống, nói cho em biết cách hóa giải lời nguyền đi, em rất muốn nghe.”
    “Em đã đọc hết Blog anh chưa?”- “Rồi” - “Những tâm hồn đồng điệu. Em nói phải, ngay từ khi vào Blog em, anh đã nhận ra chúng ta rất giống nhau. Cô bé ạ, lời nguyền không tự nhiên mà có, nó là do chính em sinh ra.”
    Anh thật sự có thể giúp tôi. Tự nhiên trong tôi bừng lên một niềm tin mãnh liệt. Dù rằng, có những lúc tôi đã từ bỏ niềm tin.
    “Anh không dám dạy bảo em. Anh không có tư cách dạy bảo bất cứ ai, đúng như em từng nói. Nhưng anh biết ngoài nỗi cô đơn, con người còn một thứ mãi mãi gắn bó. Em biết không?” - “…?” - “Hãy đặt bàn tay lên ngực trái của mình, nó luôn ở đó, và hít thở thật sâu”.
    Tôi lập tức làm theo lời anh và rồi bật cười. Nụ cười lần này khác hẳn.
    Lâu rồi tôi không vào Blog nữa. Chính xác là một năm tôi từ biệt thế giới ảo. Bây giờ, tôi đang là sinh viên năm nhất đại học. Má con tôi đã vượt qua được một chặng đường dài. Nghĩ lại, tôi vẫn thương ba. Cứ cuối tuần, ba lại đến thăm hai má con. Ba và tôi tâm tình đủ chuyện từ học hành, bạn bè cho đến tình cảm… trong khi má ngồi yên lắng nghe. Tôi để ý, lâu lâu ánh mắt ba lại nhìn má đầy tha thiết. Có lẽ ba muốn nói : “Anh xin lỗi em, hãy cho anh cơ hội làm lại từ đầu”. Có thật là ba muốn nói thế hay đó chỉ là do trí tưởng tượng của tôi, hy vọng của tôi? Rồi cứ đà đó tôi lạ nghĩ tiếp: Sao ba không dành câu nói ấy cho ngày xưa… Nếu ba muốn cứu vãn, đâu phải là không thể?
    Tôi không trách ba, cũng không trách cuộc đời hay cái gọi là số phận nữa. Hãy cứ xem tất cả như một giấc mơ.
    Có một lần tình cờ, rất tình cờ tôi đảo mắt vào Blog của Sống khi mượn máy tính của một con bạn. Không thấy gì khác ngoài duy nhất một Entry, có thể gọi là Entry cuối cùng: “Tạm biệt các bạn. Dẫu chỉ là trong thế giới ảo, tôi sẽ luôn nhớ và yêu mến các bạn. Tôi rồi sẽ chỉ là một cái nick, một Blog , một chuỗi những ký tự trôi dạt trong cái thế giới ảo bao la này. Nhưng tôi tin tôi sẽ Sống trong lòng một vài người…”
    Nhất định rồi, anh thân mến. Em hiểu rằng dù là ảo hay thực, trong thế giới nào cũng cần lắm những con người có tình yêu thương và biết sống để yêu thương. Đó cũng chính là liều thuốc cho những tâm hồn đang còn cô đơn, như em đã từng...
    [/FONT]
     
  4. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cơm nhà[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lưu Quang Minh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bước vào quán lề đường dựng bảng “bình dân”, bác ngó qua dãy thức ăn được bày biện sẵn sàng sau lớp kính, chỉ chờ thực khách chọn món sẽ gắp vào dĩa cơm, bưng ra bàn. Bác đảo qua một lượt. Hôm nay có sườn nướng, đậu hũ dồn thịt, thịt kho hột vịt, cá chiên, mực xào thơm…. Nhiều quá. Thực đơn đa dạng nhưng bụng chỉ chứa nổi một, cùng lắm là hai món thôi.
    “Ăn gì bác ơi?”
    “Cho bác thịt kho hột vịt…”
    Bác lom khom ngồi xuống ghế, giở cái mũ lưỡi trai cũ sờn đặt lên bàn. Mái đầu bác lộ ra đầy sợi bạc, làn da xù xì sương gió, vầng trán nhăn nheo, áo quần luộm thuộm nhàu nhĩ, bộ dạng thường thấy nơi những người chồng người cha trụ cột gia đình ngày ngày lăn xả với đời bươn chải kiếm sống thương vợ, chăm con khôn lớn.
    Trưa trời trưa trật. Mấy cái bàn hầu hết đã lấp kín bởi những tấm lưng thoang thoảng mồ hôi. Xa xa ngồi kia đang ngấu nghiến cái đùi gà có lẽ là một anh xe ôm. Hai ba cậu choai choai ồn ào góc này làm thợ hồ. Mấy cô kế bên xoen xoét tám chuyện chắc buôn bán đồ lặt vặt ở chợ. Và đám thanh niên rôm rả bàn đó: công nhân khu chế xuất.
    “Cơm đây bác ơi!”
    Con bé phụ việc nhanh nhẹn bưng dĩa cơm ra, kèm một chén canh chua. Bác với đũa, lại tìm chén ớt. Không thấy đâu, bác gọi:
    “Cho bác mấy trái ớt đi cháu.”
    Con bé dạ dạ chạy vào lấy ngay. Bác ngồi chờ, buồn thiu. Mấy hôm rồi vợ bác sốt cao, ra nhà thuốc mua chục viên trắng viên xanh về uống mà chẳng thấy bớt, chiều qua bác chở đi khám liền nghe ông bác sĩ phán: “cần nhập viện!”. Vậy là hôm nay nhà còn mỗi một mình, bác đành phải tự túc khoản cơm nước.
    “Ớt nè bác.”
    Bác cho ớt vào dằm dằm, trộn đều với nước thịt.
    Chẳng bằng bà ấy được! Tay nghề nấu nướng của bà ấy mới là số một. Bác vừa nhai cơm, vừa ngẫm nghĩ. Tuần nào trong bếp cũng sẵn một nồi thịt kho hột vịt, món “ruột” của mình. Bao giờ bà ấy cũng tinh ý…
    Trong tâm tưởng, bác thấy hai vợ chồng ngồi ăn cơm: mình lấy đũa xắn đôi quả trứng, gắp một nửa vào chén cho vợ, nửa cho mình, rồi vừa và cơm vừa tấm tắc.
    “Ngon tuyệt! Ngon tuyệt!”
    Vợ bác cười tủm tỉm, múc nước kho rưới vào chén cho bác, lại gắp thêm miếng thịt. Bác ăn cay lắm, biết tính nên bữa cơm nào bà ấy cũng bỏ sẵn vào mâm mấy trái ớt hiểm. Dằm quả ớt nát nát vào nước thịt, cay cay mặn ngọt, ăn với cơm, sao mà… tuyệt!
    Nhai mấy hạt cơm trộn trạo trong miệng, bác ngó miếng trứng vừa ăn. Lắc đầu.
    Hột vịt kho của vợ bác sao mà ngon bao nhiêu tuyệt bao nhiêu, thì ở đây lại dở tệ bấy nhiêu! Bác liếc cái bảng đề chữ “bình dân” to tướng dựng đằng trước kia mất một lúc. Ừ thì cũng phải, ăn cơm “bình dân” còn đòi hỏi gì nhiều.
    Dĩa cơm ngoài món chính vừa gọi còn bỏ thêm một nhúm rau muống xào. Nhưng ôi thôi rau gì lại vừa dai vừa già, ăn chỉ muốn nhả bã. Vợ bác vẫn thường trêu:
    “Ông là kén cá chọn canh lắm nhé, chẳng biết ai phục vụ nổi cho ông vừa lòng!”
    “Thì có bà chứ còn ai vào đây nữa!”
    Thằng con trai độc nhất đi học xa, năm nao còn bé tý mà giờ đã ra dáng sinh viên năm hai. Cuối tuần nào gọi điện về cũng than:
    “Cơm sinh viên “ẹ” lắm bố ơi. Con thèm cơm mẹ…”
    Nghe nó phát âm chữ “thèm” thôi, bác cầm ống gọi bên này cũng đủ hiểu lòng con trẻ, mắt đỏ hoe:
    “Ráng đi con, học tốt, được nghỉ rồi về ăn thịt kho hột vịt.”
    Hai cha con giống nhau, đều mê món thịt kho hột vịt mẹ nó làm. Bác nhớ ngày ấy ba người ngồi dùng cơm, hễ thấy dĩa thịt kho là bao giờ thằng con trai cũng múc lấy múc để nước thịt chan như canh. Bác rầy:
    “Mặn con!”
    Cơm trắng chuyển cả thành nâu vì màu nước thịt, nó cứ xì xụp xì xụp. Có khi chẳng cần thịt trứng gì, cứ nhai không mỗi cơm với nước thịt như thế, vậy mà cu cậu ních căng tròn bụng sạch sẽ không còn hạt cơm nào vẫn đưa cho mẹ:
    “Con xin bát nữa.”
    Bây giờ thì những bữa cơm chỉ còn lại hai ông bà già. Vợ bác tới bữa nhìn mâm cơm hay thở dài:
    “Tội nó quá, lên đó cơm nước cứ tạm bợ, riết rồi gầy rộc hẳn đi…”
    Bác vội vã trấn an:
    “Trên thành phố thiếu gì món ngon, không cơm tấm thì phở, hủ tíu, bánh canh… Rồi nó cũng thích nghi được thôi.”
    Nói vậy chứ giờ đây, đang trong quán “bình dân” này, bác hiểu điều mình nói nào có dễ dàng gì với con trai. Bà ấy mới vắng nhà một ngày, mình mới chỉ ăn cơm ngoài một ngày, đã không chịu được. Huống chi nó quanh năm suốt tháng…
    Cái cảm giác một mình im lặng ngồi ăn bên những người xa lạ, tai phải nghe loáng thoáng mấy mẩu chuyện vụn vặt xa xôi mình chẳng hề dính líu liên quan, quả vô cùng đơn độc. Hàng ngày bác có chuyện vui chuyện buồn, tin tức trên báo trên đài gì mình đọc mình nghe được tới bữa đều vừa ăn vừa tâm tình với vợ, bà ấy lại kể bác nghe chuyện ngoài đường ngoài chợ, những điều mắt thấy tai nghe, cứ thế cùng trao đổi thông tin, rõ thêm chuyện lại hiểu nhau hơn. Ăn cơm mà mạnh ai biết người nấy, cố cho xong bữa rồi thôi, buồn lắm! Mỗi người mỗi việc, đến bữa là dịp để gặp nhau, không tranh thủ thì còn lúc nào. Bác thì nghĩ thế, vậy mà trên đài người ta vẫn khuyên: “không nên vừa nói vừa ăn, dễ đau bao tử.”
    Có đau chút cũng được, còn hơn ở chung một nhà mà chẳng mấy khi chuyện trò cùng nhau.
    “Con Mai mới bị chồng đánh nữa đó mày, tội nó ghê. Thằng chả tối ngày nhậu nhẹt say xỉn, chỉ khổ vợ khổ con…”
    “Sao nó không bỏ quách cho rồi, cái hạng đàn ông hèn hạ vương chi cho mệt xác!”
    Hai cô ngồi kế bên đang “bà tám”. Bác nhai cơm, chẳng hiểu sao trong đầu lại tưởng tượng ra một bữa cơm không phải của nhà mình.
    Bữa cơm ấy có “cô Mai” và “ông chồng say xỉn tối ngày”, thêm một đứa con gái nhỏ xinh như thiên thần. Cô Mai bới cho chồng một chén cơm, lại gắp bỏ lên trên miếng đậu hũ chiên: “anh ăn đi cho nóng!”. Ông chồng cười hiền hậu, khác hẳn những khi mang cơn say triền miên khuya khoắt về nhà đập cửa om sòm, la lối inh ỏi. Cắn miếng đậu hũ nóng giòn, hết ngắm vợ lại sang con gái. Tự nhiên mắt anh cay cay, chỉ bật ra được vài tiếng:
    “Em ơi… tha lỗi cho anh…”
    Những ông chồng say xỉn có thể thức tỉnh khi ăn một bữa cơm nhà vợ nấu hay không? Bác tin rằng có. Vì người đàn ông nào đứng trước bao nhiêu thăng trầm cuộc sống đe dọa vật ngã cũng có thể tìm niềm xoa dịu bởi bàn tay đảm đang chu tất của vợ thương yêu, thay cho chén đắng chén cay nơi những quán nhậu xô bồ ngoài kia.
    Bác húp canh xong, lấy tăm trong hũ rồi kêu tính tiền.
    “Mười hai nghìn bác ạ!”
    Đưa tiền cho con bé, bác bước khỏi quán. Mặt trời đứng bóng chói chang. Bác tạt qua quán cháo bên kia đường.
    Máng cái cặp lồng lên xe, bác chạy bon bon một lúc thì đến bệnh viện, leo cầu thang vào phòng số 41.
    “Bà thấy đỡ hơn chưa, tôi đem cháo cho bà đây.”
    Bác giở cặp lồng khói bốc nghi ngút, đưa cho vợ cái muỗng. Vợ bác nằm trên giường bệnh trắng muốt, kéo gối ngồi lên:
    “Đỡ rồi ông ạ. Khổ thân ông quá…”
    “Khổ thân bà ấy chứ. Nhà bao nhiêu việc cứ vơ hết vào để đến đổ bệnh ra. Ăn đi cho nóng, bà.”
    “Ông ăn chưa?”
    “Rồi, bà…”
    “Ông ăn gì?”
    “… Cơm bình dân. Thịt kho hột vịt. Rau muống xào. Canh chua.”
    Bà nhìn bác lặng im, múc một muỗng cháo cho vào miệng.
    Ăn nóng cho giã cảm đi ông!
    Nhớ những lần trái gió trở trời bác đổ bệnh, bà ấy đều nấu một nồi cháo to. Khi cháo thịt bằm, lúc cháo trắng hột vịt muối, lại lắm lần cả cháo tim cháo cật…. Bà vốn khéo tay hay làm, món nào món nấy ăn rồi cũng khiến bác thòm thèm mong có lần sau được xơi thêm.
    Muốn bệnh nữa sao ông, mà cứ thèm cháo?
    Thế mà lần này đến lượt bà ấy ốm, bác lại mua cháo từ ngoài vào. Cháo ở ngoài cách nào bằng cháo bà ấy nấu cho được…
    Bác rưng rưng, thốt lên khẽ khàng:
    “Bà ơi, tôi thương bà lắm…”
    Người vợ một đời vì chồng vì con cần mẫn tảo tần quên mất mái tóc huyền đen nhánh khi xưa dần nhường chỗ cho sợi trắng sợi bạc xâm chiếm xơ xác, làn da trắng mịn gương mặt tươi xinh thuở nào giờ đây là hai đuôi mắt hằn đầy vết dấu chân chim. Dẫu thế, trong mắt bác, cũng như bữa cơm nhà, ai hơn được bà ấy. Vợ bác là người đẹp nhất.
    “Tôi cũng thương ông. Tôi phải mau khỏe để còn về làm cơm cho ông ăn nữa, khổ thân ông, cơm hàng cháo chợ nuốt chi nổi…”

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] “Mẹ đã đỡ chưa bố, con lo quá!”
    Giọng thằng con thảng thốt trong điện thoại.
    “Đỡ rồi con, chiều bác sĩ cho về rồi. Không phải lo lắng gì, trên ấy ráng mà học tốt.”
    “Dạ…”
    “Ừ, cứ thế nhé. Đầu tháng bố gửi tiền. Ăn uống cho đàng hoàng, có sức để học!”
    “Bố ơi…”
    “Gì con?”
    Giọng con trai bỗng chùng hẳn xuống.
    Như một mối giao cảm vô hình giữa cha và con, bác biết nó sẽ nói một câu làm tim bác thắt lại, nghẹn đi tột cùng.
    “Con… thèm cơm mẹ…”

    [/FONT]
     
  5. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Người ơi[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Thị Hoài Nam[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vy đứng trên sân ga, tay xách nách mang nhấp nhỏm chờ tàu đến. Người đàn bà đứng cạnh Vy làu bàu: “Tàu với chả bè”, rồi trút tiếng thở dài. Vy nhìn đồng hồ, chợt nhớ đến cái bảng thông báo giờ tàu đến 16 giờ 34 phút. Chậm đúng nửa tiếng. Thường cái gì chính xác quá lại không chính xác.

    “Tàu đến”, ai đó nói như reo. Ga Huế náo nhiệt hẳn lên bởi tiếng gọi, tiếng kêu của đám người đông kịt, tiếng mời chào dẻo quánh của các cô gái bán hàng rong. Hành khách kẻ lên người xuống, kẻ đón người đưa bu kín cả thành tàu. Vất vả lắm Vy mới đu người được lên tàu.

    Lách mãi Vy mới đến được khoang của mình. Mọi người đã ngồi kín, hình như họ lên ga từ trước. Thu xếp xong hành lý, Vy thở phào, áp mặt ra cửa tàu có chắn tấm lưới bảo hiểm đón gió. Bức quá! Mồ hôi ướt rỏng lưng. Chắc là sắp có giông, mây đen nhuộm xám cả bầu trời thế kia. Vy hắt hơi mấy cái liền, có lẽ trong nhà đang nhắc mình đấy. Giờ này chắc đông đủ cả, nghe đâu vợ chồng anh chị Biên từ Hà Nội cũng bay vào hôm qua.

    Thật ra Vy đã thấp thỏm về chuyến đi này cả tuần lễ rồi. Nhưng kẹt, sáng qua cô mới thi lấy chứng chỉ C Anh văn nên không thể vào sớm hơn được. Cách đây hơn tháng, mẹ đã viết thư nhắc nhẹ, có cả trách móc: “Hồi trước U thương con nhất vậy mà dăm ba lần kỵ vẫn không thấy mặt mũi đâu”. Quỳ, em út Vy cũng xin vài dòng tái bút chua lét : “Chị Vy ơi vào mà xin U phù hộ độ trì cho để kiếm tấm chồng không thì ê sắc đấy”. Con Quỳ chỉ được cái lếu tếu nhất nhà, ai nó cũng đùa được.

    Hình như một lần, mẹ cũng bảo Vy như thế. Vy mới ngoài hai mươi tuổi mà mẹ đã có lý do “Cứ làm như thời mẹ không bằng”. Nhưng nghĩ lại chỉ thấy thương mẹ. Thử hỏi trong nhà có đến bảy cô gái, bảy quả bom nổ chậm mẹ không lo sao được. Rồi nghĩ ngợi “Chả lẽ chuyện chồng con lại quan trọng vậy sao”.

    Chả biết U có linh hiển hay không mà từ ngày U mất trong nhà hễ có chuyện lễ lược, cưới xin chuyện làm ăn, chuyện đi Tây, chuyện thăng quan tiến chức là mẹ lại dâng lễ cầu xin U. Thực hư thế nào Vy không tường nhưng huyền thoại về U cứ nối dài ra mãi.

    Bắt đầu là cái gia sản kếch xù của anh Chỉnh. Anh Chỉnh là anh cả Vy, chưa đầy 30 tuổi đã là tay có máu mặt ở thành phố. Ở Sài Gòn phồn hoa đô hội mà nhà mặt tiền phố chính, cái để ở, cái cho doanh nghiệp nước ngoài thuê, cái nào cũng chót ngót ba bốn tầng; xe hơi đời mới loại xịn, trong nhà bội thực tiện nghi cùng cô vợ xinh đẹp không kém gì người mẫu thời trang.

    Nhiều lần mẹ giảng giải với con cháu rằng: “Hồi Mậu Thân pháo kích từ biển nã vào thành phố mù trời. U bị sập hầm, chính thằng Chỉnh đã phát hiện ra và đào bới cứu được U. Rồi khi U ốm đau nó chăm sóc U tử tế lắm. Sau này U mất, công việc bề bộn thế mà nó vẫn bỏ cả tuần lễ ra Huế bốc mộ U đưa vào Sài Gòn hỏa tang rồi gửi chùa. Nó bảo: “Như thế không lẫn, không mất mà tiện bề hương khói”. Rồi mẹ kết luận: “Nó sống trước sau tình nghĩa thế nên giờ U mới phù hộ độ trì cho nó ăn nên làm ra”. Con Quỳ cãi: “Mẹ chỉ được cái mê tín, anh Chỉnh giàu là vì anh ấy buôn lậu xuyên quốc gia. Máu liều như anh ấy tháng kiếm vài ngàn đô là thường”. Rồi nó nheo mắt tặc lưỡi: “Mà cũng coi chừng của thiên lại trả địa”. Mẹ xén ngang: “Nói chi vô hậu, phải biết kiêng mồm kiêng miệng, mê tín là thế nào, toàn chuyện nhỡn tiền cả đấy thôi, đâu chỉ có chuyện của thằng Chỉnh”.

    Dường như để khẳng định thêm sự linh nghiệm, mẹ lại kể chuyện chị Trang đi thi đại học. Vừa nhìn thấy đề thi đã bủn rủn chân tay, chị khẩn cầu U hãy giúp đỡ chị. Thế là như có người mách bảo, chị Trang cứ thế viết liền một mạch không phải nghĩ ngợi gì cả. Quỳ lại chích: “Mẹ nói chi lạ, U đâu có biết chữ mà đòi giải toán đại học được? Mẹ không biết đấy thôi, chị Trang nhà mình có bằng quay ca-mê-ra hạng siêu đấy mẹ ạ”. Vớt vát mẹ bảo: “Thần thánh cần gì phải học mới biết, thế chuyện chị Tâm mày lấy chồng bảy tám năm trời không đẻ đái gì, nếu không dâng lễ hậu cầu xin U thì bây giờ có cu Tuấn không? Còn đời cô đấy!”. Quỳ lắc đầu, biết nói với mẹ cũng vô ích. Nó hét to: “dxet – xờ”.

    Từ tảng sáng, mẹ đã giục rối cả nhà thức dậy chuẩn bị làm cỗ. Mẹ là dâu cả. Từ ngày cha mất mọi việc kỵ giỗ, lễ lược đều mình tay mẹ đứng ra sắp đặt rồi mời chú của Vy đứng ra làm chủ lễ. Mỗi năm nhà thường có năm bảy đợt kỵ, có lễ mẹ phải chuẩn bị cả tháng ròng.

    Giỗ U năm nay mẹ làm lớn, kể cả đám con cháu dâu rể, khách mời ngót nghét cả trăm. Nhưng mẹ không làm cỗ mặn, nhà Vy có truyền thống giỗ kỵ thế nào cũng chỉ cỗ chay. Trước đây U nổi tiếng là người nấu món chay vừa ngon vừa khéo. Nghe đâu U được bà nội truyền cho công kỹ lắm. Soạn cỗ chay mà giao cho U là mẹ không phải lo lắng gì nữa. Thật ra dân theo đạo Phật ở Huế nhiều, nhà nào cũng ăn chay định kỳ vào ngày rằm, mồng một nên hầu như ai cũng biết nấu món chay, nhưng để được gọi là nghề thì ít ai dám tự khẳng định. Nhìn U gọt tỉa rau củ sắp đặt mâm cỗ là Vy cứ mê đi như được ngắm một thảm hoa ngũ sắc. Vật liệu soạn cỗ chay đi lại cũng chỉ khuôn đậu, nấm, phù chúc, rau quả, tương chao không thịt cá gì mà mâm cỗ vẫn thịnh soạn, người lạ nhìn vào không phân biệt được chay mặn. Đã nhiều lần Vy chứng kiến khách khứa đến dùng cỗ, nhìn mâm cỗ cứ trầm trồ khen ngợi, thán phục, nửa muốn xăm đũa, nữa lại không nỡ như sợ làm hỏng một tác phẩm nghệ thuật. Có lần U đang loay hoay xếp ghép cho ra hình con công xòe đuôi, thấy Vy U hỏi: “Con coi đã giống chưa?”. Dạ rồi, rất đẹp ạ, “nhưng mà…”, “nhưng mà chi”; Nhưng mà U làm cỗ chay tại sao cứ muốn cho nó giống cỗ mặn. Làm thế có khác gì “hồn Trương Ba da hàng thịt không hở U?”. U bảo: “Cho nó đẹp”. Vy cãi: “Nhưng hoa lá cũng đẹp chứ sao”. U thở dài: “Có ai bỗng dưng mà trở thành thánh đâu con”. Vy không hiểu được những ẩn ý trong lời nói của U nhưng cũng không gặng hỏi thêm.

    Đã nhiều lần Vy gạ gẫm: “U bày cho con nấu món chay với nghe”. U nhìn Vy lạ lẫm: “Chà con gái tân tiến, sắp ăn cơm hộp đến nơi cần chi phải học mấy thứ lẩm cẩm ni, định cướp nghề của U hở?”. Vy năn nỉ: “Con thích thật mà U, có cơm hộp rồi lại càng phải học. Bộ bữa ni có máy vi tính rồi là không cần tập viết nữa sao”. “Chà lý sự dữ hè, biết cái chi cực cái đó con ơi, cứ có ăn ngon là được rồi, dại chi dại rứa”. “Nhưng nhỡ U…”, Vy biết mình lỡ lời. U cười “trù tui hả”, rồi cũng chỉ vẽ cho.

    Trước khi vào chính lễ, ông chú Vy áo dài khăn đóng, bê một chiếc khay trên đó mẹ Vy đã chuẩn bị một ly nước trong, miếng trầu, chén rượu, hoa quả, giấy vàng bạc và hai tờ tranh in bằng gỗ hình hai vị môn thần đặt ở cổng rồi thắp hương khấn vái, nói là để cầu xin nhị vị môn thần cho phép vong linh vào cổng, vào nhà hưởng lễ cúng.

    Sau lễ nhập môn, cả nhà lục tục lên gác để vào chính lễ. Mấy hôm trước mẹ bảo anh Chỉnh lên chùa thỉnh thầy về tụng kinh. Anh Chỉnh mời được hai thầy. Thầy có tuổi là Thượng tọa, mẹ gọi ông xưng con. Đệ tử của thầy chỉ bằng tuổi con cháu, mẹ vẫn một tiếng thưa thầy, hai tiếng thưa thầy thành kính lắm. Vy lẩn trong đám con cháu đứng lố ngố phía sau, tay chắp trước ngực, mắt ngó trộm thầy đệ tử. Đẹp trai chi lạ, mặt mũi cứ như diễn viên Hồng Kông, mày ngang, mũi thẳng, mắt sáng, đôi môi dày đỏ mọng trông mới gợi cảm làm sao. Con Quỳ đứng cạnh cũng rỉ vào tai Vy: “Chao ơi thầy tu chi uổng rứa, chắc cũng được vài năm là hết chịu nổi cho coi”. Vy lườm: “Đồ con yêu bánh nậm”, nhưng lại nghĩ “nó nói phải”. Khi thầy tụng niệm, cặp mắt sáng nhìn ngay kim thân Đức Phật, tay đưa hương ngang trán “Ấn lan tỏa ha, ấn tap ha bà ha. Bà phạ trật độ bám; nguyện thử diệu hương vân…” Giọng thầy hòa trong tiếng mõ, tiếng chuông tạo thành tấu khúc không du dương trầm bổng nhưng thanh thản thành kính, đầy lòng tin cậy. Con Quỳ lại lắc đầu bấm tay Vy rồi hướng lên bàn thờ nhẩm tụng không nói gì thêm nữa.

    Trong khi hai thầy thay phiên nhau tụng niệm, mẹ Vy quỳ trước bàn Phật, chắp tay sụp lạy. Sau hơn tiếng đồng hồ mà lễ vẫn chưa dứt, đám con cháu đã mỏi mệt, ủ ê, mất hết kiên nhẫn. Anh Chỉnh thôi không chắp tay nữa, lần túi tìm thuốc như một quán tính. Chị Biên cũng tìm cớ chuồn xuống bếp nói là để trông coi việc nấu nướng. Vy cũng cảm thấy tê dại cả đôi chân, chuyển đổi tư thế liên tục. Vy chỉ ngạc nhiên về mẹ, “Ngày thường ngồi lâu mẹ vẫn kêu nhức mỏi, chóng mặt; vậy mà bây giờ gương mặt mẹ xem ra không có vẻ gì ốm đau bệnh tật. Điều gì đã làm mẹ dẻo dai thế, đức tin chăng?”.

    Buổi chiều, Vy rủ Quỳ lên chùa thắp hương cho U. Quỳ ô-kê ngay. Hai chị em phóng xe ngay trong cơn mưa chiều chợt đến, chợt đi. Xa lộ dẫn về phía Tây thành phố chìm trong biển mưa. Hình như người Sài Gòn ít có thói quen trú mưa, trong mưa xe lớn, xe nhỏ vẫn rú ga phóng văng mạng. Dù, áo mưa đủ màu, đủ kiểu xòe ra như nấm. Cả Sài Gòn rùng rình như trong cơn địa chấn. Thật khó hình dung cách xa lộ chừng vài trăm mét ngoặt về phía phải là một thế giới khác xa lạ và chết chóc. Đó là tháp Phổ Đồng, một nghĩa địa lộ thiên với hàng ngàn hài cốt trần trụi giữa một vùng đất rộng.

    Tháp được xây cất trong khuôn viên chùa Huệ Nghiêm. Có lẽ tuổi chùa chưa được bao nhiêu nên kém phần u tịch. Tháp cao bảy tầng, hình tứ giác, được quét phủ màu ghi xám. Tầng một dùng để tiếp khách và thờ Phật địa tạng. Từ tầng hai trở đi là nơi bảo trì việc tế tự hài cốt.

    Quen lối nhưng Vy vẫn dè dặt bước. Hai chị em Vy rón rén bước trong im lặng. Vy men theo chiếc cầu thang bằng đá lạnh ngắt, tối om. Trên mảng tường ghi xám có những ô cửa nhỏ. Ánh sáng le lói lọt vào trông như những lỗ thông hơi. Vy liếc mắt nhìn ra. Ngoài kia là nắng, là trời xanh cây cỏ, là cuộc sống trần thê quay cuồng hối hả, còn ở đây là chốn thâm u mờ ảo giăng đầy sương khói. Trầm hương phả nhẹ xua tan trong Vy nỗi sợ hãi phi lý truyền kiếp. Có vài người cùng xách đồ lễ lên tháp, không ai nói gì, có lẽ họ cũng như chị em Vy, thăm viếng, tưởng nhớ và kết thúc ở cầu xin.

    Kệ tháp ken dầy các hũ cốt. Đó là những bình gốm cao thấp, vuông tròn với hoa văn đủ kiểu. Ánh sáng nhòa nhạt hắt ra từ chiếc đèn nê-ông quyện trong hương khói càng làm cho không gian trở nên kỳ bí. Nhìn các hũ cốt trong mờ ảo, tự nhiên Vy liên tưởng đến các bình cổ quý hiếm vẫn được cất giấu trong kho tàng bí mật cổ xưa. Cảm nhận của Vy về lần đầu tiên được tiếp xúc với khu nghĩa địa này là sự bình đẳng. Kích cỡ các hũ cốt không chênh bao nhiêu. Nó khác xa với khu nghĩa địa ở quê Vy. Ở đó, sau cái chết, sự sang hèn giàu nghèo vẫn còn hoành hành thống trị.

    Căng mắt, Vy nhìn lướt qua những bức hình được gắn trên mặt bình: Này trẻ, này già, này khôn, này dại, này sang, này hèn, họ ở phương trời nào giờ tụ cả về đây, yên nghỉ bên nhau trong chốn vĩnh hằng. Bên dưới chân dung là những dòng chữ vẫn thường thấy khắc trên bia mộ: Sinh hữu hạn, tử vô kỳ, không ai tiên liệu được cái chết kể cả tự sát. Những gương mặt đẹp hãy còn quá trẻ làm Vy chạnh lòng. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi thành cát bụi” nghe như giai điệu chiêu hồn đội lên từ những nấm mộ. Giờ đây tất cả đã tan biến vào trong ngọn lửa. Hỏa táng đã trở thành cuộc đại lễ cuối cùng của một kiếp đời. Liệu ngọn lửa ấy có đưa được linh hồn người quá cố nhanh chóng trở về chốn cực lạc như con người vẫn khắc khoải tơ tưởng hay đó chỉ đơn thuần là sự tiện lợi của nền văn minh.

    Hũ cốt của U đặt ở tầng ba mang ký hiệu 94b. Đó là chiếc bình gốm có hoa văn hình loa kèn. Chân dung U gắn trên mặt bình đơn sơ không áo dài, khăn cuộn vẫn không khỏa lấp được khuôn mặt trái xoan ôm lấy những đường nét thanh tú lưu giữ một thời xuân sắc.

    “U ơi sao U đẹp thế mà lại đi làm con ở?”.

    Năm 12 tuổi đã có lần Vy ngớ ngẩn hỏi U như vậy. Vy bị mẹ la rầy một trận nên thân. U cười buồn, “U mà đẹp chi”. Tiếng Nghệ tha phương sau mấy chục năm nghe vẫn còn nằng nặng.

    U ở với gia đình Vy đã lâu lắm. Nghe đâu từ hồi cha mẹ chưa lấy nhau. U là chứng nhân lịch sử chứng kiến sự hưng phấn thang phế của gia đình Vy. Hình như U biết hết mọi chuyện nhưng lại câm lặng như nấm mồ. Còn cha mẹ Vy ai cũng lơ mơ về tuổi trẻ của U. Có lẽ không ai quan tâm đến điều đó. Sự có mặt của U trong gia đình Vy cũng tự nhiên như cái rìu cái rựa. Ngay đến tên thật của U cũng không ai biết chính xác. Trong nhà từ lớn đến bé đều gọi U là U, rồi lấy tên U ghi vào giấy chứng minh nhân dân luôn. Ngày tháng đẻ lại càng mơ hồ, mẹ phải bịa ra để ghi vào những tờ cần thiết. Con người sinh ra không thể không có tên tuổi; U không nhớ hay cố tình chôn vùi một quãng đời quên lãng làm sao Vy biết được, nhưng chắc chắn không có gì tốt đẹp.

    Có lần Vy nghe bà nội nói chuyện với khách: Hồi mới xin làm con ở, U còn trẻ lắm, đẹp lắm, áo quần tả tơi rách rưới, yếm than, mấn gụ, khăn mỏ quạ chít đầu mà vẫn lồ lộ cái nhan sắc trời cho. Đẹp đến nỗi nội ngỡ người tiên giả kẻ hèn để thử lòng người phàm tục. Hoảng quá nội cho người cơm nước tiếp đãi tử tế nhưng không dám nhận. Thầm nghĩ, nếu là tiên thì nhà đâu có phúc nhận rước vào làm con sen con ở, còn người phàm mà đẹp thế kia liệu có đỏng đảnh được ba bảy hai mốt ngày không? Cái đẹp nào mà chẳng kèm theo chút hư hỏng. Đẹp thì lẳng, đẹp thì rồi thế nào cũng hư nết. Nhưng U khóc quá, một mực cắn rơm cắn cỏ van xin. Nội Vy không cầm lòng được đành phải nhận bất đắc dĩ.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Thuở nhỏ, hồi nhà Vy còn ở Huế, Vy rất thích ngủ với U. Nhưng cha Vy cấm, “dưới bếp không thoáng dễ gây bệnh”. Cha Vy nghiêm lắm, nghe cha dạy đứa nào cũng dạ răm rắp. Riêng Vy vồ trán, mắt to nổi tiếng gan lì bướng bỉnh là không thuận theo ý cha. Đêm đêm, khi tiếng ngáy của cha vang lên từ chiếc phản gian ngoài là Vy rón rén chuồn xuống bếp. Hầu như đêm nào Vy cũng giở trò ranh đó nhưng chưa lần nào bị phát giác. Được ngủ với U rất thích, trước là không chen lấn, giành giật chăn gối cãi cọ lẫn nhau; sau nữa tránh được nguy cơ bị văng ra khỏi giường ngủ với đất. Ngủ với U được quạt, được xoa lưng, được nghe kể chuyện lại còn tha hồ được hỏi dông dài mà không bị rầy la. Thử hỏi có thú gì bằng.

    Tối nào, trước khi đi ngủ Vy cũng thấy U ngồi xếp bằng lần tràng hạt, tụng niệm giờ lâu. Tràng hạt của bà nội Vy cho U. Một lần bà gọi U vào hỏi chuyện, bà bảo: “Tôi thấy chị đẹp người đẹp nết, ăn ở hết lòng với gia chủ tôi cảm mến lắm”, im lặng hồi lâu bà nói tiếp: “Này tôi hỏi nhé, chị có muốn lập gia đình không, tôi làm mối cho”. Mặt U tái nhợt, “dạ không ạ”; “Sao lại không, chị có biết chị đẹp lắm không, có người nhờ tôi dạm hỏi chị đó. Nếu chị thuận tôi sẽ đứng ra để thu xếp cho, ông ấy cũng là người tốt”. “Ông ấy” mà nội bảo chính là bác Đãi, đại tá về hưu, bạn đồng niên với cha. Hồi Cách mạng Tháng Tám, bác gia nhập quân ngũ, rồi tập kết ra Bắc. Bác đã có một đời vợ, hai con nhưng bom Mỹ đã cướp đi tất cả, nên bây giờ bác vẫn một mình đơn chiếc. Nhưng U vẫn một mực từ chối, “dạ con không có phúc phận ấy bà cho con ở vậy”. Bà nội thở dài không nài ép nữa. Bà Vy trao vòng chuỗi màu huyết dụ vào tay U mà bảo: “Tôi chưa thấy người nào đẹp như chị nhưng có lẽ chị bị vướng vào chướng nghiệp nặng lắm mới lạc vào phận hèn hạ. Nếu chị không có ý lập gia đình, tôi khuyên chị hãy thành tâm tụng niệm, nguyện từ bỏ lòng ham muốn, rũ hết cái bụi đời thì về sau mới thoát khỏi cảnh luân hồi mà lên cõi niết bàn?”.

    Không biết U có thấu thị hết lời giáo huấn của bà Vy hay không mà nước mắt chan chứa thành dòng rồi sụp lạy mà không nói gì.

    Một lần Vy gạ gẫm hỏi U: “U tên chi?”, “tên U”, “ứ con biết không phải”, Vy nhõng nhẽo nhưng xem ra không nhượng bộ, “U nói tên thật ấy”; “U quên rồi”, “U không phải, U giấu con, con không chơi với U nữa, U thật dễ ghét”. “Con hỏi làm chi, tên mô nỏ được”; “con hỏi cho biết”, Vy dẻo mép, “mai kia lớn lên con đi lấy chồng, nếu chồng con hỏi U tên chi thì nói sao. Thương mà không biết tên nghe chi lạ”. Vy vừa nói vừa đẩy người U giằn dỗi. U lặng người hồi lâu rồi buông lời: “Tên Trầm”. Vy nhổm dậy: “Hả, U nói tên chi, tên Trầm à”; “không tên Trầm, trầm hương ấy”. “A, U Trầm, U Trầm, tên đẹp thế mà U dấu con, ở quê mà đặt tên hay ghê”, U lắc đầu: “Quê U có nhiều trầm lắm nên cha U lấy tên Trầm đặt cho U chứ có văn hoa chi mô”.

    Như mạch nước nghẽn tắc được khơi dòng, ký ức bị khuấy động tuôn chảy, U đưa Vy về một vùng quê mà chưa một lần Vy nghe nói đến. Vy lịm dần vào xứ sở của mù sương huyền thoại.

    Kể rằng, khởi thủy làng quê U là một khu rừng cổ thiêng lắm. Rừng nằm dọc triền một con sông lớn. Điều kỳ lạ là rễ cây rừng lan đến đâu hương thơm tỏa ra đến đấy ướp đẫm cả trời đất, cỏ cây, mây nước. Người làng U tin rằng đó là thứ hương của trời. Một lần vị coi kho của Ngọc Hoàng vô ý đánh vỡ chum đựng hương liệu quý, bột hương xòa ra rắc xuống trần gian, phủ lên cả rừng cây đại ngàn kia rồi ngấm vào đất, vào nước. Rễ cây được nuôi dưỡng trong đất thơm nước thơm ấy mới có được hương thơm kỳ lạ như vậy. Người sành hương bảo rằng: trầm ở khu rừng này không ngây ngất mê dụ mà thoang thoảng mùi dịu nhẹ, nhã đạm, tinh khiết, thâm trầm. Ngọc Hoàng một lần vi hành xuống cõi giới, qua vùng đất này thấy hình sông, thế núi uốn lượn mềm mại như có long mạch chảy qua, hương thơm tỏa khắp chốn, ngỡ đây cũng là chốn thiên đình lạc về trần thế, bèn cho xây một chiếc cổng lớn bằng vàng để ngày ngày tiên nữ giáng thế rong chơi. Ngọc Hoàng còn ban chỉ cho dân gian: Nếu ai có điều gì oan ức hoặc khẩn cầu thì đến khu rừng thiêng này, ngửa mặt lên trời hú dài ba tiếng, Ngọc Hoàng sẽ sai sứ giả đón tiếp và giúp đỡ.

    Đêm ấy Vy không sao chợp mắt được, hình ảnh khu rừng cổ thiêng chỉ toàn hương thơm và chiếc cổng trời cứ ăn nhập vào tâm trí Vy như một khát vọng định mệnh. Ước gì Vy được một lần đến đó để ngửa mặt về cổng trời hú lên ba tiếng…

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Trong nhà chỉ có cha Vy lại dị ứng với U. Công bằng mà nói, trước đây ông không thế. Cha mẹ Vy vẫn được tiếng là người giàu mà biết lễ. Cha không điển trai, lại khiêm tốn về chiều cao, khuôn mặt mộc tinh, trán rộng, phẳng trượt dưới mái tóc dợn sóng, lúc nào cũng chải ngược về phía sau một cách tươm tất. Khi ra khỏi nhà, cha Vy lúc nào cũng đội mũ và đi giày hoặc dép có quai hậu. Bản tính ông điềm đạm, thận trọng nhưng gia trưởng, quyết đoán. Mỗi khi cha đưa ra ý kiến gì điều được mọi người từ lớn đến bé tuân phục vô điều kiện. Ít có ai trong nhà dám thắc mắc cha vì sao thế này, vì sao thế kia. Cha là con trai trưởng một dòng họ đã một thời vang bóng trong chốn quan trường. Ông được giữ lại ngôi nhà tổ tiên để lo việc thờ cúng. Ngôi nhà lợp mái ngói liệt ba gian hai chái bằng gỗ lọt thỏm giữa một khu vườn rộng có đến ba mẫu trồng toàn cây lưu niệm. Nhà được xây cất theo lối xưa toàn cửa là cửa. Trong nhà toàn cột sóng đôi. Trên xà ngang còn lưu giữ bức chạm cẩn rất tinh vi hình cổ đồng bát bửu mai hạc nay đã bị tróc đi ít nhiều. Hồi mới giải phóng, thấy vườn nhà Vy rộng nhiều người đánh tiếng muốn mua đất. Họ bảo: “Ông chỉ cần xén đi cái rẻo là lên lầu, xây nhà mô-dẹc” nhưng cha Vy không bán, “Đất tổ tiên để lại, bán đất đi chẳng khác nào trồng cây mà đốn rễ”, ông bảo thế.

    Cha Vy còn có thú tiêu khiển đến đam mê là sưu tập cây kiểng. Trước vườn nhà Vy đặt toàn chậu kiểng. Hàng ngày đi làm về ông dành thời gian còn lại để chăm sóc cây kiểng. Cha Vy nổi tiếng uốn thế cây ở Huế. Với kinh nghiệm hãm cây dày dạn, ông đã tạo ra hàng loạt cây cảnh bon sai với những hình dáng mang vẻ đẹp tự nhiên mà giàu tính triết lý như thiên địa nhân, tứ quý, siêu phong, long giáng, lưỡng long tranh châu, cây nào cũng bé tý nhưng tuổi có khi gần cả đời người.

    Trước khi lấy mẹ Vy, ông đã có một đời vợ. Nghe nói người vợ trước của ông cũng là một thiếu phụ xinh đẹp đoan trang. Vy chỉ biết mặt mẹ đích qua bức chân dung được cha truyền thần từ bức ảnh cỡ 4x6 đã ố màu. Trong ảnh người đàn bà mà Vy gọi là mẹ đích hiện ra với những đường nét thanh mảnh, mềm mại, đài các của cô gái xứ Bắc. Cha Vy không bao giờ nhắc đến mẹ đích; nhưng nội của Vy nói rằng, mẹ đích tên Giao được cha yêu chiều lắm, khi bà mang thai đầu lòng, cha Vy không cho bà làm gì, chỉ luẩn quẩn ở nhà thêu thùa, đan lát. Một hôm bà cầm ly xuống bếp uống nước, không may va phải bậc cửa, bà vấp thanh chắn ngã vật ra, mảnh vỡ văng vào cổ, đụng phải mạch chủ máu phun xối xả, vài tiếng sau thì mất. Cha Vy đau đớn đến không khóc được. Mai táng vợ xong, ông cạo trọc đầu, đêm nào cũng vác chiếu ra mộ vợ nằm đúng ba tháng mười ngày. Hồi đó, đám đàn bà con gái kháo nhau cha Vy là người chung tình nhất thế gian.

    Sau này bà nội cho người đến dạm hỏi mẹ Vy, không biết có phải vì duyên số hay cảm cái đứng thủy chung của ông mà mẹ Vy với bà ngoại thuận luôn. Từ bấy đến giờ cha mẹ đã có với nhau 9 mặt con. Tính tình ông vẫn trước sao sau vậy. Vậy mà tất cả đều thay đổi, Vy không hiểu điều gì đã khiến ông biến thành kẻ khác nhanh đến vậy. Ông trở nên hay cáu gắt với những người trong nhà đến vô lý và thường tìm cớ xét nét U. Có lần ông phát hiện U dấu đĩa bánh bột lọc bọc tôm thịt úp trong chiếc nồi đồng, ông làm dữ: “U là giống tôi mọi. Trong nhà này có ai để U chết đói, chết khát mà phải làm thế”. Rồi ông chắp tay sau lưng, rảo những bước chân ngang dọc vừa đi vừa nói như quát “nhục nhã, nhục nhã”. U ngồi câm lặng trước bếp không thưa gởi một lời, đôi mắt ngấn nước nhìn ngọn lửa. Nồi cơm sôi reo đội nắp tràn cả ra ngoài mà U chẳng hay. Lúc đó, Vy thương U quá, chỉ muốn hét to lên: “Cha không có quyền làm nhục U như thế, U không phải là hạng người như cha nói”. Bởi Vy biết rõ, những chiếc bánh đó bao giờ U cũng để phần hơn cho Vy. Nhưng mặt Vy hết đỏ tía rồi lại tái xám. Vy run lên không nói ra lời. Có lẽ Vy hãy còn quá bé chưa đủ can đảm để đối thoại với cha, mà ngẫm, dẫu nói cũng vô ích, máu gia trưởng cố hữu không cho phép ông đính chính hay nghĩ lại bao giờ, ít nhất là ông cũng tỏ ra như thế: “Cha con mà nói đúng thì có trời mới dám bảo sai” – mẹ Vy đã chẳng có lần nói thế là gì.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Mẹ Vy thường an ủi U, “dạo này ông ấy bận lắm, công việc phải lo nghĩ nhiều sinh cáu gắt, U đừng để bụng làm gì. Ngay cả với tôi ông ấy cũng thế”

    Mà có bao giờ Vy thấy U câu chấp ai đâu. Hình như U sinh ra để sống kiếp sống cam chịu, cam chịu đến phi lý. Lắm lúc Vy nghĩ mà giận thay cho U. Tại sao U vẫn thành kính với cha xem như không có chuyện gì xảy ra vậy?. Chao ôi, giá mà Vy đến được khu rừng cổ thiêng ấy để ngửa mặt lên trời hú lên ba tiếng…

    Nhiều lần Vy gặng hỏi U: “Hồi ở quê, U có bao giờ cầu xin ông trời điều gì không?”. U gật đầu: “Có, nhiều lắm nhưng ông trời xa lắm con ạ”. Rồi U kể cho Vy nghe một câu chuyện cổ về một cô gái khi mới lọt lòng mẹ đã đẹp như vầng trăng. Thân thể đứa bé tỏa hương thơm lạ lùng. Người con gái càng lớn càng đẹp. Đẹp đến mức, làng bản đàm tiếu rằng thiếu nữ chính là ma rừng chứ không phải giống người. Lời độc loang ra, dân làng tìm cách trốn tránh nhà cô gái. Nhưng đám trai làng thì bất chấp, ngày đêm rình rập cạnh nhà nàng. Họ lao vào rừng tìm kiếm trầm quý và hoa thơm để dâng tặng dưới chân nàng, có là quỷ trá hình chăng nữa cũng không thể dập tắt niềm đam mê được ngắm nhìn nàng.

    Rồi gặp năm hạn hán kéo dài, rừng khô cỏ cháy. Làng chẳng có cái gì ăn. Củ mài củ nâu cũng bị đào bới hết. Ngày nào trong làng cũng có người bị chết đói. Già làng làm lễ cúng tế trời đất. Ngày ngày cả làng ngẩng mặt lên trời hú lên những tiếng dài vang động cả núi rừng mong được Ngọc Hoàng ra tay cứu vớt. Nhưng hạn hán vẫn hạn hán. Đã nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều mùa trời không cho lấy một giọt mưa. Đói khát chết chóc, trùm phủ lên làng bản. Trong cùng quẫn bế tắc, dân bản họp nhau lại bàn tính mưu kế. Sau nhiều lần tranh cãi, họ kết luận: sở dĩ lời khẩn cầu của làng bản không thấu được đến thần linh là vì sắc đẹp của nàng đã làm cho các thiếu nữ ghen tức, sinh lòng đố kị mà giáng họa. Làng phán quyết, bắt người con gái xinh đẹp làm vật tế thần. Nhưng trước sắc đẹp của nàng, làng bản không nỡ bỏ nàng trôi sông hoặc lên giàn hỏa thiêu. Cuối cùng, họ cưỡng bức nàng phải lấy một gã hủi, chân tay ngón cùi ngón cụt; sống cô độc ở rìa làng. Già làng giải thích rằng, làm như vậy cuộc hôn phối chung đụng giữa người con gái sắc nước hương trời với người hủi sẽ làm cái đẹp bị hoen ố và thần thánh sẽ được thỏa mãn, không còn giáng họa cho làng nữa.

    Kinh hoàng trước lời phán quyết đó, một đêm không trăng không sao, trời tối như mực, cô gái bỏ làng ra đi biệt xứ. Năm ấy cô gái vừa tròn tuổi trăng rằm.

    Nghe xong, Vy xoáy câu hỏi: “Chuyện của U à”, U nẩy người: “Tầm bậy, chuyện cổ ấy mà”, Vy cũng không dám hỏi thêm gì nữa, nhưng lòng Vy vẫn không thanh thản chút nào.

    Ký ức đầu đời của Vy là một ấn tượng khủng khiếp khi Vy mười ba tuổi. Mẹ vắng nhà, cha đi làm, Vy trốn học vì không thuộc bài. Vy xách cặp lang thang, rồi án chừng giờ này chắc cha đã ở nhiệm sở, Vy phóng một mạch về nhà.

    Vừa lọt vào cái cổng bằng chè tàu, trụ cổng được cha tỉa khéo thành hình hai con hạc voóng cổ quay mặt chầu nhau, Vy ngớ người vì trông thấy chiếc xe hon da 50 quen thuộc, “Sao cha lại về giờ này”. Vy định vọt ra cổng chuồn lẹ. “Nếu cha phát giác trò trốn học thì thế nào cũng nếm đòn”. Nhưng tiếng U từ trong nhà hổn hển vọng ra: “Tôi xin ông, tôi cắn rơm cắn cỏ xin ông. Làm thế tôi có tội với bà nhà lắm”. Vy lạnh người, lờ mờ hiểu chuyện tồi tệ xảy ra. Tức tối, Vy định xô cửa chạy vào. Nhưng thay vì làm thế Vy lại đi giật lùi. Vy chạy bổ ra bờ sông, nhờn nhợn những bậc đá mờ rêu làm Vy xuýt ngã. Thây kệ! Vy vứt bừa sách vở, rồi vòng từ bên kia qua bên này sông. Vy bơi mãi, cho đến khi mệt lử người tím tái, tay chân bấn nớt dúm dó như cọng dưa héo Vy mới lướt khướt lên bờ. Vy khoanh tay ngồi lặng bên bờ sông nhấm nháp vị hăng hắc của loài cỏ dại. Mặt sông vẫn lặng lờ trêu người. Hương của trăm loài hoa đổ xuống lòng sông bay đi đâu cả hết rồi chỉ thấy tanh tưởi bốc lên ngập ngụa đến chân từng chân tơ kẽ tóc. Vy nhìn thẳm xa về phía chân trời, nắng chiều đỏ thắm đang lụi dần sau dãy núi. “Ngày mai mặt trời sẽ không bao giờ mọc nữa cha ơi…”

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Mọi cái đều đã thay đổi. Trật tự tôn ty trong nhà Vy đã biến dạng thành khuôn mẫu khác. Biết làm gì bây giờ? Nhiều lần, Vy lăm le muốn nói với mẹ, nhưng trộm ngó khuôn mặt thanh thản, thánh thiện của mẹ là Vy không nỡ. Mẹ không biết có lẽ tốt hơn. Mẹ còn bao nhiêu việc phải lo toan. Con người ta khốn khổ vì phải biết quá nhiều. Hơn nữa, mẹ ốm đau luôn, trái tim loạn nhịp của bà liệu có gánh nổi những điều khủng khiếp vậy không? Còn cha, đó chỉ là sự đam mê nhất thời hay tình yêu? Nếu chỉ là sự đam mê nhất thời thì có thể gọi là phản bội mẹ được không? Dù thế nào thì mẹ cũng không đáng được đối xử như vậy. Mẹ đẹp và hiền thục. Và điều quan trọng là đã hết lòng tin cậy cha. Cha đối với mẹ là một thứ tôn giáo khó giải thích được. Mọi lý lẽ đều trở nên vô nghĩa trước đức tin của mẹ, mấy ai có được may mắn đó để mà giữ gìn.

    Nhưng Vy bị ám ảnh khủng khiếp, Vy cần phải chia sẻ với ai đó. Vy không thể đào hố để nhét vào lòng đất cho thỏa. Những cây sậy đang rình rập đâu đây. Vy bắt đầu viết nhật ký. Trang nhật ký đầu đời của Vy không phải là chuyện tỏ tình của thằng bạn trai cùng lớp đã dám to gan tặng Vy một nhành hoa cỏ hay đơn giản hơn chỉ là cây viết chì xanh đỏ. Vy viết đến dâu, trang giấy ngả màu đến đấy. Vy ân hận về buổi trốn học sáng hôm ấy, giá Vy không trốn học điều đó có lẽ tốt hơn cho cả cha và Vy. Lẽ nào, cha chứ không phải ai khác đã tàn nhẫn cướp đi niềm tin đầu đời của Vy? Lẽ nào cha sống với mẹ không hạnh phúc? Con người sinh ra hình như chỉ có được một thực quyền ấy là sự khổ đau. Rồi Vy đi xa hơn, còn mẹ, liệu sau cái vẻ bề ngoài thánh thiện kia mẹ sẽ có những trò phù thủy gì mà Vy không hay biết. Lẽ nào, đạo đức lại được định giá bằng sự kẻ này biết ém nhẹm hơn người kia. Ôi, cái trò chồng vợ.

    Cũng từ đó, dẫu vì lý do chính đáng được nghỉ học giữa buổi Vy không dám về nhà. Vy lang thang đàn đúm nơi này một tý, lêu lỏng nơi kia một tý. Khi không biết đi đâu, Vy tìm đến quán cà phê nhâm nhi từng giọt đắng cho đến khi cầm chắc kim đồng hồ đếm tới con số mười một Vy mới dám về nhà.

    Cuộc sống vẫn tiếp tục như cũ. Cha lại vẫn cáu gắt, mẹ Vy vẫn vô tư chẳng biết gì, U lầm lũi làm việc. Còn Vy dẫu không cố tình, mắt vẫn xét nét về mọi phía.

    Nhiều đêm, nằm vắt tay lên trán như bà cụ non, phải đối thoại với chính mình, Vy tự hỏi, mình có còn là mình nữa không? Vy trở thành phiên bản của chính cha. Giận cá chém thớt, Vy trút hết mọi nỗi hận lên U. Vy nghĩ một đường, Vy làm một nẻo. Chuyện bé xé ra to. Cũng từ đấy Vy không xuống bếp ngủ với U nữa.

    Cũng từ đấy, ai bảo U đẹp, Vy dẫu môi ngấm nguýt: “Đẹp như cái tép khi tương”. Vy xăm xoi quan sát U với quyết tâm chứng minh bằng được nhan sắc U chẳng có gì đáng ngưỡng mộ cả. Nhưng lạ thay, khi vào cuộc, Vy lại bị cuốn hút bởi những phát hiện của chính mình. Hiếm có người đàn bà nào tuổi ngoài tứ tuần lại có được dáng vóc mảnh dẻ thắt đáy lưng ong như U. Da U không trắng ngần mà mặn mòi bồ quân, cổ cao khoanh tròn ba ngấn, mắt to đen, chìu mí thăm thẳm diệu vợi. Cái lúm đồng tiền ở má trái xòe ra như miệng vực đánh đắm người đời. Đã lâu, U không còn vấn tóc, chít khăn mỏ quạ mà chỉ búi tóc lên một cách biếng trễ càng tôn thêm vẻ đài các quyến rũ. Tự nhiên, Vy giận U ghê gớm. “Ai bảo U đẹp chi”. Giá U không sắc nước hương trời đến vậy thì chắc gì cha, một người mẫu mực chung tình đến thế lại đổ đốn ra như vậy. Đến thần thánh mà vô phúc gặp cũng phải chuếnh choáng nữa là. Lẽ nào, cái đẹp đồng nghĩa với sự hủy diệt, tàn phá. Chưa bao giờ Vy cảm thấy thù hận với mọi vẻ đẹp đến thế và nghịch lý thay cũng chưa bao giờ Vy khao khát cái đẹp đến thế. Đêm đêm, Vy vẫn ngụp lặn trong dòng sông cổ tích để tìm phép nhiệm màu. Hóa ra, nước mắt khóc thương cho cô Kiều lâu nay vẫn chảy ngoài Vy.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Ngày chủ nhật cha họp gia đình. Vẫn bằng giọng trầm tĩnh, cha thông báo một quyết định: cho U thôi việc. Cả nhà đường đột, lén đưa mắt ngơ ngác nhìn nhau. Ông nhìn mẹ tiếp lời: “Các con lớn rồi, phải tập cho chúng làm việc. Có U chúng sẽ ỷ lại dễ trở nên lười biếng, sau này không nên người”. “Không nên người”, suýt nữa thì Vy cười lên thành tiếng. Cha mà cũng đủ tư cách nói đến chuyện nhân cách ư?. Cha thật lòng muốn anh em Vy nên người hay đó chỉ là cái cớ? Hay có lẽ cha bất lực với chính mình? Trong những cái tồi tệ, cha chọn cái ít tồi tệ nhất. Dẫu sao, gia đình đối với cha vẫn còn quan trọng. Cha đã ngoài năm mươi, cái tuổi đã bắt đầu phải nghĩ đến danh dự cho con cái. Thế có nghĩa là cha lấy U làm vật hy sinh cho những giá trị đang bám đầy mình trên người cha? Thôi thì đằng nào cha cũng phải lựa chọn.

    Còn đối với U, Vy không biết mình nên vui hay buồn trước quyết định đó của cha. Vy trống rỗng, bàng quan, hình như đã ít nhất một lần Vy thầm mong U biến mất khỏi căn nhà của Vy. Nhưng bây giờ…

    Đêm ấy, Vy thấy cha mẹ lầm bầm trò chuyện với nhau tới khuya. Vy nghe trộm câu được câu mất… Lần đầu tiên, Vy thấy mẹ phản đối quyết định của cha. Mẹ một mực thuyết phục cha để U ở lại nhưng không được cha chấp thuận. Sáng ra, bối rối như người có lỗi, mẹ Vy khẩn khoản: “U khoan vội đi, thư thả cho tôi dàn xếp với ông ấy, biết đâu ông ấy sẽ nghĩ lại, chắc ông ấy có điều gì bực mình chứ ông là người có tâm mà”. U nói với mẹ: “Bà đừng băn khoăn, ông bà tốt với tôi lắm. Phận kẻ ăn người ở mà được cậy nhờ vào cửa ông bà coi như đã phúc phận lắm rồi. Ông nhà nói phải, các cháu đã lớn khôn rồi bà ạ”.

    Mẹ Vy không cản được đành để U khăn gói ra đi. Mẹ dúi vào tay U xếp tiền rồi khóc. “Nhớ có tin về cho chúng tôi”. Vy nhìn mẹ: “Nếu mẹ biết chuyện giữa cha và U thì mẹ có tình cảm với U đến thế không nhỉ?”. Vy không nói không rằng, lẽo đẽo theo U ra đến đường quốc lộ. U quay lại: “Con về đi”. Vy hỏi: “U đi đâu”, U bảo: “Xuôi vào Nam rồi tính”. U vẫy chiếc xe đò màu đỏ rồi lên xe. Khi chiếc xe khuất dạng, tự nhiên nước mắt Vy òa ra, tức tưởi: “Sao U không đi về phía cổng trời hở U?”

    Một hôm, cô Lam bác sĩ đến chơi nhà Vy. Cô nhìn cha như lần đầu được gặp: “Sao em thấy ánh mắt anh dạo này vàng thế, đi khám xem sao”. Cô quay sang hỏi mẹ: “Anh ấy có uống rượu không”. Mẹ bảo: “Dạo này, đêm nào ông ấy cũng uống, tôi không cản được”.

    Cha đi khám, làm đủ các xét nghiệm. Người ta ghi vào đơn: Viêm gan cấp, buộc cha phải vào viện điều trị, nhưng lại nói riêng với mẹ: “Ông ấy bị xơ gan ở giai đoạn cuối”. Mẹ Vy thất thần, khuôn mặt tái nhợt. Mẹ bảo với cha: “Bác sĩ bảo ông yên tâm tĩnh dưỡng, chịu khó thuốc thang vài tháng là khỏi”.

    Được vài tháng, bệnh tình của cha Vy trở nặng. Bụng ông bắt đầu phình chướng lên, tay chân co rút lại chỉ còn da bọc xương, lều khều như con nhện cái. Không biết ai chỉ vẽ mà mẹ mua cả thúng bồ kết về đốt lên xông bụng cho cha, khói mù mịt cả nhà. Những cơn đau hành hạ làm ông vật vã. Có lúc cha hoảng loạn, hốt hoảng kêu cứu. Lúc thì lẩm nhẩm rên rỉ xin được giải thoát bằng cái chết. Nhìn cha đau đớn, cả nhà không cầm lòng được. Lẽ nào, kết cục của kiếp phù du lại bi thảm đến vậy. Cha muốn chết ư? Phải chi sự ra đi nào cũng hàm chứa điều trừng phạt? Mọi việc trong nhà dồn lên đôi vai mảnh dẻ của mẹ. Đêm đêm mẹ gần như thức trắng ở bên giường bệnh chăm sóc cha, ngày lại lo toan thu xếp, cất đặt mọi việc trong nhà. Mẹ gầy rộc đi, mắt trũng sâu thâm quầng hốc hác.

    Một sáng, chừng như đỡ đau đớn, ông gắng gượng ngồi dậy và cố húp được lưng chén cháo, nhìn mí mắt mẹ rộp phồng lên, cha bảo: “Đời có sinh có tử, có mở có khép, không ai sống mãi được, mình đừng thuốc thang gì cho tôi nữa mà tốn kém vô ích. Đêm qua tôi thấy mình rơi xuống một miệng vực đen ngòm. Tôi rơi mãi, rơi mãi cho đến khi luồng ánh sáng mờ nhạt xuất hiện và tôi không còn cảm thấy đau đớn nữa. Đối với tôi bây giờ, chết là một cuộc sống khác”. Im lặng hồi lâu ông nhíu mày, buông lỏng từng tiếng: “Mình đi tìm U về cho tôi”, rồi nằm thiếp ra giường không nói gì thêm nữa.

    Mẹ không hỏi lại cha. Sáng hôm sau mẹ nhờ bác Vinh đến thăm cha, lo việc gia đình rồi xuôi vào Nam tìm U. Không biết mẹ đã tìm U như thế nào, gặp U ở đâu, nói với U những gì mà ba ngày sau đã thấy U khăn gói theo về. Gặp lại U, Vy nhảy cẫng lên, mừng đến phát khóc, quên khuấy chuyện cũ. U lại trở về với những công việc không tên, suốt ngày chăm sóc cha không rời một phút. Cha không nói gì với U cả, xem như giữa hai người không gì xảy ra. Khi dịu đau, ông thường đặt tay lên trán, nhắm nghiền mắt. Vy không biết cha thức hay ngủ. Một tháng sau ngày U trở về thì cha đi.

    Mẹ nhờ thầy coi ngày hoàng đạo để an táng. Được ngày đẹp trời, không mưa gió thì thầy phán ngày xấu. Chờ đến ngày tốt thì mưa gió ập đến, nước nguồn đổ về dâng cao ngầu đục cả dòng Hương. Đoàn xe tang rù rì lăn bánh, gió rít từng cơn, mưa tuôn xối xả. Bó chổi rành lập lòe lúc đỏ lúc tắt. Những tờ giấy vàng mã bằng bàn tay rắc ra thấm tan vào nước như chiếc bánh tráng. “Cha ơi, thế này thì làm sao cha qua được bên kia sông”.

    Năm ấy, cha Vy vừa bước vào tuổi năm tư, đúng gần một năm nhà làm lễ mừng cha thoát hạn bốn chín, năm ba.

    Một năm sau, đúng vào ngày cha mất, U không ốm đau bệnh tật gì cũng đi nốt. Người ta bảo nhà Vy có tang trùng. Người khác lại bảo: “Con ở thì có liên quan gì”. U mất trong khi ngủ, phát hiện ra thì người đã lạnh cứng, vô phương cứu chữa. Mẹ Vy gào khóc: “U ơi U sống khôn thác thiêng, U có nghe tôi nói không. Cả đời U đã lo cho gia đình tôi mà trước khi đi, U không thể cho mẹ con tôi chăm sóc U lấy một ngày như thế có tội cho tôi không? U tệ lắm U ơi”. Chị Trang bảo: “U đi thanh thản thế, mẹ đừng khóc nữa mà U quẩn không đi được đến nơi về đến chốn”.

    Mẹ lo an táng cho U hết sức chu đáo. Dường như để trả cái nghĩa cho người đã khuất, bà tự tay nấu nước trầm hương rửa cho U. Sau đó, mẹ lấy chiếc đũa ngà đặt ngang hàm U, bỏ vào miệng U một nắm gạo, ba lát vàng lá bằng hạt đậu. Trước khi liệm mẹ bảo Vy mở cái hòm làm bằng gỗ thông đặt dưới chân giường của U lấy cho mẹ bộ áo quần mới nhất. Chiếc khóa lâu ngày bị hoen rỉ, loay hoay mãi Vy mới mở ra được. Mùi long não xông lên thơm phức. Những bộ áo quần mới được xếp chồng lên cao đến mép rương. Năm nào mẹ cũng có may đồ mới cho U, nhưng ít khi thấy U mặc. Thường U chỉ mặc lại áo quần cũ của mẹ, “mặc đồ mới ngượng lắm”, U bảo thế. Vy đếm, ngót ngét cả đến chục bộ. Khi lộ ra đáy rương, Vy thấy một gói nhỏ dẹt được bọc bằng chiếc khăn len buộc chéo. Lần giở những gút thắt, Vy chết lặng. Trong gói là một chiếc áo cộc tay màu rêu khác lạ. Vy rũ ra, “đúng áo của cha rồi; sao nó lại ở đây? U giữ làm gì nhỉ?” Chuyện cũ lờ mờ thoáng hiện. “Lẽ nào U cũng sâu nặng với cha đến vậy”. Vy định giấu chiếc áo đi, nhưng mẹ đã ở sau lưng. Mẹ cầm chiếc áo lặng đi giờ lâu, không nói không rằng rồi lấy dao cắt hết hàng khuy áo của cha đắp lên mình U trước khi liệm. Vy sửng sốt nhìn đôi tay mẹ run rẩy mà dứt khoát. “Sao mẹ làm thế”. Mẹ bảo: “Chẳng lẽ U ra đi với hai bàn tay trắng, như thế thì tội lắm con ạ”.

    Vy chạy ra vườn, ngồi bệt dưới gốc cau khóc tru lên. Vy không cắt nghĩa được những giọt nước mắt của chính mình. Chỉ cảm nhận được rằng, khóc đến đâu Vy cảm thấy nhẹ lòng đến đấy. Tự nhiên, Vy thấy thương cho tất cả mọi người, kể cả người sống lẫn người khuất.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] “Chị khấn đi, cầu xin U phù hộ độ trì cho nhanh rồi về”.

    Vy cầu xin gì ở U nữa đây? Sao bao nhiêu năm vắt kiệt cuộc đời mình cho gia đình Vy, U còn lại gì để cho? Trên đời này làm gì có lòng tốt niêu cơm “Thạch Sanh”. Gia đình Vy nợ U nhiều lắm. Món nợ mà có là kẻ giàu có đến đâu cũng khó lòng hoàn trả được. Nếu quả có một cuộc sống sau khi mất, Vy cầu khẩn cho linh hồn U đừng vương vấn chi chốn trần gian khốn khổ này mà nhanh chóng tìm về cõi cực lạc.

    Bó hương trong tay Vy lụi dần gần đến lọ chân hương. Tàn hương không thẳng mà cong vòng xoắn xuýt như những câu hỏi, con Quỳ nói như reo, “tàn hương mà cong vòng như thế là bà chị sắp có lộc to rồi, chị mau lạy tạ U đi. Nhớ đừng tham, xin gì thì một lần xin một việc thôi, thế mà thiêng”. Vy làm theo nó như một cái máy, lạy lia lịa.

    Khi hai chị em bước ra khỏi tháp thì trời đã chạng vạng. Bầu trời đã tạnh ráo, những làn mây xám vẫn vô tình bay đi ngàn năm. Một đám mây mang hình khuôn mặt người trầm tư ngước nhìn lên khoảng không diệu vợi. Thoang thoảng đâu đây lời nói của gió: “Người ơi, tìm cái gì trong vô tận ấy!”.
    [/FONT]
     
  6. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chị Hạnh[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lý Hoài Xuân[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chị Hạnh hơn tôi những mười tuổi; nghĩa là năm chị biết nhảy cò cò, chơi ô quan thì tôi “oa oa” cất tiếng chào đời. Nghe đâu khi tôi còn ngậm vú mẹ, thỉnh thoảng chị bồng tôi đi chơi nhà hàng xóm.

    Tôi mến chị, vì chị là người cưng chiều tôi; chị khéo bày cho tôi những trò chơi hấp dẫn; khi nào tôi bị mẹ đánh, chị thường chạy sang bênh. Những năm kinh tế nhà tôi khó khăn, có lúc phải ăn sắn khoai trừ bữa, chị đã bớt phần mình, mang sang cho tôi những bát cơm trắng tinh.

    Chị Hạnh là người con duy nhất trong gia đình dì tôi. Ba chị là du kích, bị Tây bắn khi chị mới lên hai. Dì tôi đã ở vậy nuôi chị và thờ cúng dượng tôi, chứ không “đi bước nữa” như một số người.

    Dì tôi và chị Hạnh có nhiều nét thật giống nhau, từ khuôn mặt trái xoan đôn hậu dễ thương, đến cái má lúm đồng tiền, đôi mắt sáng… Khác chăng là dì tôi thường búi tóc, ăn trầu, mà chị Hạnh thì không. Dì tôi thương chị lắm, một ngọn roi cũng không dám đụng vào; lớn rồi mà đi đâu xa về, dì tôi cũng có quà cho chị. Với con một số nhà, như thế không khéo sẽ thành hư, nhưng với chị Hạnh thì không. Chị ý thức rất cao tình thương của dì tôi nên luôn luôn tỏ ra biết điều, không bao giờ cãi lại dì tôi hoặc làm việc gì trái với lời dì tôi dạy bảo. Có điều hơi ngạc nhiên là không hiểu tại sao kinh tế gia đình dì tôi khá thế mà dì tôi chỉ cho chị học đến lớp ba! Khi tôi biết thắc mắc điều này thì dì tôi đã qua đời rồi. Dì tôi mất đột ngột vì bệnh thương hàn nhập lý. May sao trước lúc dì tôi “ra đi”, chị Hạnh đã có chồng. Xung quanh chuyện chồng con của chị, cũng có nhiều tình tiết hấp dẫn lắm! Năm chị đến tuổi hai mươi, có một anh bộ đội miền Nam ra tập kết - tên Chức đến dạm hỏi. Thương hoàn cảnh anh bộ đội không cha không mẹ, dì tôi đồng ý ngay. Chị Hạnh lúc đó không rõ có ưng hay không, mà cứ mỗi bận thấy anh Chức đến nhà là tìm cách đi trốn. Có lần không trốn kịp, chị phải ngồi đóng đinh trong buồng im như thóc. Một hôm đang ngồi thổi cơm, lúc quay lại rút rơm cho vào bếp, chị Hạnh bỗng giật nẩy mình vì thấy anh Chức đã ngồi lù lù sau lưng từ bao giờ rồi. Mặt chị đỏ như lửa nung; chị cắn môi, không dám hé nửa lời. Mãi đến khi nấu xong cơm, chị mới lấy lại được bình tĩnh, đứng dậy mời anh ra uống nước. Biết “đối phương” đang ở trong thế “bị bao vây”, anh Chức bèn đưa ra điều kiện: chị phải trả lời câu hỏi của anh thì anh mới chịu uống. Chị Hạnh tủm tỉm cười, lườm anh, rồi bật ra một câu gọn lỏn: “không yêu!”. Nhanh như cắt, anh Chức túm lấy tay chị hỏi vặn: “Tại sao không yêu nào?”. Chị Hạnh mở căng mắt nhìn trân trân vào mắt anh. Một tình yêu nồng nàn dâng đầy trong hai tâm hồn. Đó là giây phút chị trả lời anh. Đó là lần đầu tiên trong đời chị nhận từ anh những chiếc hôn huyền diệu. Ấy thế mà đến lúc cưới, dì tôi vẫn không hết băn khoăn, cứ thanh minh với người này người khác, vì sợ mang tiếng “ép duyên con”. Dì tôi hy vọng anh Chức sẽ “ở rể” với dì, sẽ gần gũi dì để chăm lo tấm tranh nuộc lạt. Ai ngờ chưa đầy một tháng sau khi cưới, anh Chức có lệnh đi học. Anh là một trong số những người đầu tiên được chọn đưa về Nam hoạt động. Chị Hạnh sống chung với anh cả thảy chỉ vẻn vẹn một tháng ba ngày.

    Hơn nửa năm sau ngày anh Chức ra đi, dì tôi mất. Lo trăm ngày cho dì tôi xong thì chị Hạnh sinh cháu. Mẹ tôi thay dì tôi sang giúp chị xông phây. Tôi một buổi đến trường, còn một buổi ở nhà vừa học vừa trông con cho chị. Thời kỳ này chị Hạnh giữ chức Bí thư đoàn thanh niên xã, công việc khá bận rộn. Tuy thế, đêm đêm chị vẫn nhờ tôi dạy cho chị học thêm văn hoá và tập ký lại chữ ký. Vui nhất là những lúc viết thư cho anh, chị nhờ tôi đọc những câu thơ hoặc những câu ca dao hay để trích vào. Tôi thêm tên của anh và chị vô, khiến chị rất thú vị. Trong số những câu chị gửi cho anh, tôi còn nhớ được câu này:

    “Dù cho sóng gió bão bùng

    Hạnh em vẫn giữ thủy chung vẹn tuyền”

    Thư đi, thư về. Tôi không biết trong thư anh đã nói gì với chị, mà cứ sau mỗi lần có thư, tôi thấy chị vui hơn. Có thời gian vắng thư anh, chị ngồi lục lại những lá thư cũ ra xem. Chị viết thư hỏi “Cục động viên đi Bê” và được biết anh đã vào sâu, không có điều kiện liên lạc. Hàng tháng, chị dành khoản tiền lương của anh để lại mua sắm cho con. Bé Phúc được chị chăm sóc chu đáo nên rất chóng lớn. Vầng trán và đôi tai của nó giống anh Chức như tạc. Chị thường chỉ cho bé Phúc xem ảnh ba treo ở cột nhà. Đi đâu về, chị cũng ngước nhìn lên chỗ cột nhà ấy. Dường như ở đó có một sức mạnh tiềm tàng đem lại niềm vui cho chị! Vâng, nhờ có những niềm vui nho nhỏ ấy mà chị giấu được những giọt nước mắt vào lòng. Tôi thực sự sợ những giọt nước mắt của chị! Đã mấy lần tôi chứng kiến cảnh chị nằm vắt lên mộ dì tôi khóc rồi chị cào hết cỏ trên mộ dì tôi mà dì tôi vẫn không thể nào sống lại được! Mong sao chị đừng phí thêm nước mắt nữa! Nhưng, sự đời không dễ dàng như thế, có những chuyện không đâu cũng có thể làm người ta giày vò, và vẫn cứ phải trào nước mắt ra.

    Lúc đó vào khoảng giữa đêm. Một loạt bom rải thảm làm tôi thức giấc. Tôi thoảng nghe gần chỗ tôi nằm có tiếng ai khóc ấm ức. Tiếng khóc lúc gần lúc xa, lúc cố nén lại, lúc muốn bật ra. Xen vào tiếng khóc ấy là tiếng trẻ thơ kè nhè van xin: “Mẹ, mẹ đừng khóc nữa!” Quái lạ! Hay là ai bị bom ở đâu? Hay là tôi còn ngủ mê? Hai tai căng ra, tôi chú ý nghe lại lần nữa. Đúng là tiếng khóc của chị Hạnh rồi!

    - Mẹ! Mẹ! Tôi lay gọi mẹ tôi. Hình như chị Hạnh có chuyện gì không vui đang khóc, mẹ ạ!

    Mẹ tôi bật dậy, nghiêng tai về phía có tiếng khóc, nhận định:

    - Ừ, đúng con Hạnh. Có thể hắn mê!

    - Không! Tôi cãi lại. Con nghe lâu rồi! Hay chị ấy nhớ “dì qua”? Mẹ chạy sang với chị ấy một tí đi!

    Mẹ tôi nhảy lên khỏi hầm. (Thời kỳ này cả làng tôi đều phải xuống ngủ hầm để tránh bom Mỹ). Tôi lẽo đẽo chạy theo sau.

    Chị Hạnh ngồi úp mặt lên hai đầu gối, tay chân giật giật như người động kinh. Cháu Phúc đứng sau lưng ôm choàng lấy cổ mẹ.

    - Hạnh! Hạnh! - Mẹ tôi hoảng hốt gọi - Sao thế con?

    - Dạ… thưa dì… chị Hạnh nấc lên từng tiếng một. - Thiên hạ họ đặt điều ác quá! Tính con có thế đâu! Chẳng qua là thương các anh ấy luyện tập vất vả, có khi nấu thêm bát canh, có khi để dành củ khoai… Vậy mà…

    Ồ, tôi hiểu rồi! Thì ra chị khóc vì có kẻ vu khống chị có “quan hệ ái tình” với mấy anh bộ đội. Họ cho rằng việc mấy anh ấy ăn cơm chung với chị, đi họp ban đêm với chị, thường xuyên cho con chị quà là có “lý do” cả! Nhất là sau buổi sinh hoạt Đoàn gần đây, không rõ ai đã đưa chuyện đó ra phê bình. Chị Hạnh kiên quyết gạt bỏ những điều bịa đặt về mình, song có một số kẻ xấu lợi dụng chuyện này “tung hỏa mù” trước mọi người. Chúng đưa ra cái “thuyết”: “Có lửa mới có khói”, “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, gây nên không khí thực thực hư hư làm chị hết sức khổ tâm.

    Như có gì cào xé trong lòng, tôi giận dữ tuyên bố:

    - Chúng nó xuyên tạc mặc kệ chúng nó, hơi đâu mà chị lo! Thật vàng chẳng sợ lửa.

    Nghe tôi nói, mắt chị bỗng sáng lên. Chị xúc động nhìn tôi mếu máo:

    - Biết thế, nhưng… anh ấy đâu có hiểu!...

    Đúng là dư luận xã hội nguy hiểm thật. Có thể có, có thể không, nhưng khi đã tung ra thì ai dễ gì thanh minh được. Chị Hạnh sợ dư luận đến tai anh Chức, làm anh không yên tâm công tác. Tội cho chị quá, lúc nào cũng phải sống trong tâm trạng băn khoăn!

    Cho đến hôm tôi lên đường nhập ngũ, chị Hạnh vẫn dặn đi dặn lại với tôi rằng: “Nếu cậu có gặp thì nói với anh hãy tin vào chị, chị không bao giờ phụ bạc anh đâu!”

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]
    Tôi trở lại làng mình sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Trong số những đứa con của làng cầm súng ra đi, tôi là người về sau cùng. Có lẽ vì thế mà làng đã giành cho tôi một tình cảm khá đặc biệt trong buổi đón tiếp. Từ các em bé ngày tôi đi chưa sinh, đến các cụ ông cụ bà lưng đã còng, phải chống gậy dò dẫm từng bước một, không ai không có mặt. Duy chỉ có mẹ con chị Hạnh là chưa thấy đến. Ai đó đã mách thầm với tôi: anh Chức - chồng chị đã hy sinh. Từ ngày truy điệu anh đến nay, thỉnh thoảng chị phải đi viện vì bệnh đau tim.

    Nghe đâu anh Chức mất từ tết Mậu Thân, nhưng không rõ lý do tại sao mãi đến năm bảy mươi ba ký hiệp định Pari mới báo tử! Chị Hạnh đã chết ngất khi nhận được tin này; mẹ con chị khóc suốt tháng trời trước bàn thờ anh!

    Ôi, chị Hạnh ơi! Sao mà đời chị cay đắng thế? Liệu chị còn đủ nghị lực sống tiếp những ngày không có anh không? Chị đã hết lòng chung thủy với anh, đã vì anh mà kiên trinh bảo vệ danh dự cho mình, và cuối cùng!...

    Từ đó, mỗi lần về nhà, dù bận mấy tôi cũng không quên sang thăm, động viên an ủi chị.

    Một buổi tối, biết tin chị ốm nặng vừa đi viện về, tôi vội vã chạy sang. Mới đặt chân đến sân, tôi bỗng nghe từ trong nhà tiếng chị vọng ra:

    - Phúc, vì sao con không trả lời dứt khoát với anh ấy?

    - Chẳng lẽ mẹ không hiểu nữa à? Phúc xẳng giọng.

    Tôi linh cảm có chuyện không hay, nên tần ngần đứng lại.

    - Nè Phúc, mẹ vẫn chưa hiểu ý con nói! Có phải con chê cậu ta không nghề nghiệp không?

    - Không! Con chỉ lo… Mẹ thử nghĩ mà xem: bà ngoại con như thế… mẹ như thế… Liệu con… có như thế không? Phúc nấc lên.

    Chị Hạnh buông một tiếng thở dài. Phúc nói tiếp:

    - Anh ta là bộ đội, mà bộ đội thì… Thôi, con không nói nữa! Tùy mẹ…

    Phúc bỗng khóc òa. Hình như chị Hạnh có nói thêm vài câu nữa rồi mới khóc theo. Tôi không nghe rõ chị nói gì và cũng không hiểu mình đang đứng ở đâu! Trước mặt tôi: bóng đêm mỗi lúc một dày thêm. Sương đã bắt đầu thấm ướt hai vai. Một luồng gió bấc lạnh lùng chạy qua gáy làm tôi rùng mình. Tôi nghe bên tai mình “u u”, những dấu hỏi cứ thay nhau hiện lên: “Có nên vào thăm chị lúc này không? Liệu mình vào, có giúp ích gì cho mẹ con chị không? Cứ vào! Thôi, có lẽ để lúc khác hay hơn!”. Rồi, như người vừa đánh mất một báu vật, không giữ được thăng bằng, tôi buồn bã quay về.

    “Anh ta là bộ đội, mà bộ đội thì…” Bên tai tôi câu nói đầy lo ngại của Phúc thỉnh thoảng lại vang lên. Tôi có cảm giác mình đang ngồi trên một chiếc đu quay với tốc độ không làm chủ được. Nhắm mắt, rồi mở mắt, tôi trăn trở cùng câu nói ấy.

    “Phúc ơi, cháu không biết rằng cậu cũng đang là bộ đội ư? Đã có một người con gái đi qua đời cậu. Cô ta như một đốm sáng huyền ảo hiện lên chập chờn trước mắt cậu. Cậu đã cố hết sức mình vượt qua một quãng đường dài đầy gai chông để đuổi bắt. Khi đốm sáng ấy gần nằm trọn giữa lòng tay thì có một vị thần chợt hiện ra chặn đứng ngay bước chân của cậu. Đó là mẹ cô ta. Mẹ của cô ta không muốn cô ta kết duyên với cậu, chỉ vì cậu là bộ đội!” Tôi miên man suy nghĩ … Thông thường một số bà mẹ gánh chịu quá nhiều thương đau hay có tâm trạng tâm lý như Phúc, còn các cô gái thì ngược lại. Đằng này… Phải chăng Phúc có hoàn cảnh riêng, nên không giống các cô gái đó? Mà kể ra nỗi băn khoăn của Phúc cũng chẳng dễ gì trách được! Cô gái mồ côi già trước tuổi ấy đã biết dự cảm những điều có thể xảy ra…

    Buồn gì hơn trong một gia đình chỉ có toàn phụ nữ với nhau, công việc trong nhà, dù nặng nhọc đến mấy cũng phải lao vào làm. Tôi đã thấy trường hợp một chị phụ nữ có mang leo lên giữa trời mưa chói lại nóc nhà bị tốc rồi! Nói đâu xa, gia đình dì tôi đây đã mấy khi có tiếng cười đàn ông chiều ba mươi tết đâu! Trong lúc đó các gia đình xung quanh thì lại không như thế! Tôi thương dì tôi, tôi thương chị Hạnh, và tôi rất cảm thông với cháu Phúc. Nhưng, chẳng lẽ… Tôi nghĩ về những đồng chí đồng đội của tôi đang ở ngoài đảo xa (trong đó có Quân - người định “đặt vấn đề” với Phúc - một cô giáo mới ra trường, mà có lần chị Hạnh kể cho tôi nghe). Họ không phải là số ít! Nếu ai cũng như Phúc cả, thì…

    Tôi không biết mình ngủ từ lúc nào mà khi mở mắt ra thấy trời đã sáng. Với sự bức xúc trong lòng, tôi chạy ù sang nhà chị Hạnh kể hết đầu đuôi chuyện tối qua. Mắt chớp chớp, chị Hạnh nhìn tôi xúc động. Lát sau, chị chỉ tay về phía Phúc đang ngủ, thầm thì:

    “Em cứ yên trí, rồi đâu sẽ vào đấy thôi! Chị biết tối qua Phúc thức viết gì cho cậu Quân rồi!”.
    [/FONT]
     
  7. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lễ hội ăn mày[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hồng Nhu[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Người đàn bà choãi hai chân ra sau, nhúi đầu xuống, tay trái vẫn ôm chặt đứa con nhỏ giữ cho mũi mồm nó vẫn trồi trên mặt nước, tay phải khoát một nửa vòng tròn, rướn tới… Cùng lúc với nhịp lấy đà theo để bơi tiếp, chân chị bỗng chạm phải đất. Chị mừng rỡ kêu "ôi" một tiếng khẽ, đạp dấn chân kia xuống, đứng thẳng người dậy, lội… Nước ngang cổ, ngang ngực rồi ngang lưng quần… Thế là thoát, là đã sắp vào bờ, cái bờ mà gần suốt đêm chị vừa mong đợi lại vừa lo lắng không biết sẽ phải làm gì khi bước cái bước đầu tiên lên đó. Chị vỗ vỗ bàn tay ướt nhèm vào má đứa con gái nhỏ; cô bé lắc lắc đầu, ngọ ngoạy cổ, làm nước trên người văng ra hai bên thành những tia mát lạnh bắn vào lườn lưng bên trái chị. Chị mỉm cười lẩm bẩm: "Rõ là con nhà đầm phá!". Vậy là hai mẹ con chị đã hơn một nửa đêm dầm mình trong nước. Chị thì không nói làm gì, đã bao năm sống trên mặt phá bao la, chị có thể lặn cả ngày dưới đáy đầm cũng như ở trên cạn, chỉ ngại đứa con nhỏ mang theo. Khi quyết định bỏ trốn vào bờ, rời bỏ vĩnh viễn vạn thuyền, chị đã tính để con gái nhỏ ở lại. Song nó còn bú, lại có đứa con trai đầu lên năm ở lại với cha nói rồi. Nó sẽ lớn lên, sẽ thành một chàng trai đầm phá giỏi giang để tiếp nối cái nghề vạn chài truyền thống của cha ông nó. Đó là của quý nhất chị đã để lại cho chồng, trả cái tình nghĩa vợ chồng ăn ở với nhau lâu nay, mặc dầu cái tình nghĩa đó lúc đầu chỉ là sự ép buộc. Thôi, tôi đành phụ anh, chắc anh cũng hiểu cho tôi, tôi còn cha mẹ, quê hương làng xóm nơi chôn nhau cắt rốn, đã bao năm rồi tôi chẳng biết ai còn ai mất! Cuộc đời tôi không phải là cuộc đời trên đầm phá xa lạ, hãi hùng này. Lạy Trời, lạy Phật, lạy ông Hà Bá, lạy bà Thủy Vương phù hộ cho vạn thuyền anh, phù hộ cho anh chóng lấy được vợ khác…
    Chị vụt nhớ lại hoàn cảnh của mình. Đã lâu lắm rồi, chị gần như quên lãng, giờ đây hiện về mồn một trong đầu. Ngày đó, một buổi chiều tối, sau bao ngày lang thang kiếm ăn, cha mẹ chị dắt chị vào nghỉ ở cái lều tranh góc chợ bên đường. Bấy giờ là năm đói kém, làng quê chị ở bên bờ sông Hoàng Long đói xơ xác, bà con thất tán người lên tận rừng sâu, người xuống tới biển rộng để tìm nguồn sinh sống. Nhiều gia đình bồng bế nhau, bị gậy ra đi. Cứ đi, nơi nào có thể xin được là đi, không ai tính lấy đường về. Gia đình chị cũng trong tình cảnh bi thảm đó. Cứ đi… nhắm hướng nam mà đi, nơi nào có chợ búa là đến, kiếm miếng cho vào bụng đỡ đói, không còn nhận biết ra phương hướng nữa. May mà ông trời còn có ngày có đêm, buổi sáng mặt trời mọc, buổi chiều mặt trời lặn. Cứ đi… đi cho đến ngày hôm đó. Buổi chiều chị được ăn một nắm xôi to dễ bằng quả dừa điếc và mấy con tôm rim, do nhà chủ nọ có kỳ cúng giỗ mà cha mẹ chị dắt chị tình cờ bước đúng vào ngõ. Đó gần như "bữa tiệc" chia tay mãi mãi của chị với những người ruột thịt của mình.
    Đêm càng lúc càng sâu, càng vắng vẻ. Cả nhà chị chìm vào trong giấc ngủ say sưa trên nền lều chợ mát lạnh. Gió từ đầm xa hiu hiu thổi vào như ru giấc ngủ thêm ngọt thêm muồi. Chị thấy mẹ nhẹ nhàng nâng đầu chị lên, đút cho chị ăn như hồi mới lên hai lên ba. Ôi mẹ, con đã no căng bụng rồi đây này! Mẹ nói cơm thương chứ ai thương, hãy cố mà ăn con ạ, no rồi cũng cứ ăn thêm, bù vào những lúc không có cả một cái dây khoai để nhai cho khỏi buồn cái chân răng. Mẹ ấn củ khoai luộc ép chị ăn thêm nữa. Củ khoai bùi quá, làm cổ họng chị đặc cứng, tắc nghẹn, muốn kêu mà không kêu được. Rồi bỗng mẹ buông tay. Chị thấy như được ai bồng bế, người nhẹ hẫng rồi bay đi, lượn lờ như con bướm trong vườn cải nhà chị hồi nào. Con bướm có đôi cánh lốm đốm vàng xanh cứ dập dềnh rồi chao chát, long bong, rồi phầm phập, phầm phập rất lạ. Con bướm cứ chúi đầu xuống ao, hai cánh giẫy run, cố cất lên nhưng cứ rũ xuống dần, lướt thướt trườn đi một cách tuyệt vọng…
    Chị giật mình thức giấc, hoảng hốt ngồi nhổm dậy, hai tay bưng lấy mặt, chưa biết chuyện gì đã xảy ra vừa rồi.
    - Đừng sợ! Đừng sợ nghe con!
    Tiếng ồm ồm đùng đục của ai thế? Tiếng cha sao nghe lạ lùng! Mẹ, mẹ đâu rồi? Chị khẽ lách các ngón, nhìn qua kẽ tay. Trời ôi! Chị bỏ phắt hai tay xuống, rên rỉ, ngơ ngác, hãi hùng nhìn quanh. Hai người đàn ông, một già, một trẻ đang ngồi trước mặt chị. Dáng họ cao lớn, vạm vỡ, có vẻ bặm trợn nhưng nét mặt thì hiền khô, trên môi anh chàng trẻ còn in một nụ cười nữa. Họ đều cởi trần, quần đùi, da nâu bóng…
    - Trời hỡi! Đây là đâu thế này?
    Họ không trả lời. Chị nhìn quanh, nhận biết mình đang ngồi trên một chiếc thuyền đã được neo lại giữa dòng, bập bềnh bập bềnh phồng lên xọp xuống theo hơi thở của sóng. Trên đầu là trời cao, chung quanh bốn bề là nước. Thăm thẳm… mịt mù…
    Chị òa khóc. Hai người đàn ông im lặng. Họ không hề làm gì chị cả, cũng không dỗ chị, kệ cho chị khóc, hình như họ cho là cần phải như thế. Ông già đưa mắt cho người con trai. Chị rú lên một tiếng. "Họ sắp làm thịt mình!". Anh con trai đứng lên, im lặng chui vào khoang. Chị nhắm mắt lại, nghĩ nhanh: "Mình tới số rồi, trời ơi là trời!". Chị đợi một nhát dao hay một cú búa, hay một cái gì tương tự như thế. Có tiếng lẹt xẹt trước mặt chị. Chị mở mắt ra, một bát cơm đầy tú hụ đặt trên một khúc cá kho khoanh tròn hình quả trứng to được đẩy tới.
    - Ăn đi! Ăn đi kẻo đói con! - Ông già lại ồm ồm lên tiếng, giọng trầm mà nghe nhẹ nhõm. Chị vụt hiểu tất cả. Chị đứng bật dậy, mặt ráo hoảnh, ương bướng:
    - Các người bắt tôi về đây làm gì, hả?
    Ông già sắc mặt không hề thay đổi nhưng giọng điệu thì thay đổi, dỗ dành:
    - Không làm chi đâu con ơi! Bắt con về làm dâu thôi mà! Con sẽ là vợ thằng trai lão đó, con nhé?
    Đưa hai tay chống nạnh, chị nhìn cha con ông già, mắt long sòng sọc:
    - Các người có thả tôi ra không hả?
    Chàng trai cười rất tươi, rủ rỉ:
    - Không thả! Mà có thả em biết đường nào mà đi, làm chi mà sống! Ở đây, trên trời dưới nước thế này, em có thấy không?
    Tiếng "em" của chàng trai làm chị thoắt dịu lại:
    - Tôi còn nhỏ, tôi không lấy anh đâu!
    Chàng trai lại cười, nụ cười lần này thì như nụ cười của ông chủ, thỏa mãn và đầy tự tin:
    - Thì tôi đợi em lớn đã mà! Có gấp gáp chi!
    Chị gần như ngã ngồi xuống lòng thuyền, hai tay buông thõng, thở dài não nuột. Chị không muốn khóc nữa mà nước mắt cứ đầm đìa. Chị biết thế là cuộc đời chị đã được quyết định do những người xa lạ và hoang dã giữa vời phá bao la này. Chị đứng vụt, kêu xé lên một tiếng, nhào người xuống nước. Chàng trai nhanh như chim cắt, kịp túm tay chị lôi lại, đẩy chị vào trong khoang.
    Bấy giờ chị mới là một con bé mười ba tuổi…

    2. Gần như kiệt sức, chị nằm lăn ra bờ đầm hoang, mắt ngước nhìn bầu trời đang sền sệt như màu trứng cá. Đứa con nhỏ đang quờ tay tìm vú. Chị ấp con vào người, xốc cho nó bò bên bụng. Con bé chẳng khó khăn gì để trườn một cái rồi ngoạm lấy vú mẹ. Chị nghe nhồn nhột, giật mình sực nhớ là mình trên để trần. Đàn bà vùng đầm phá chuyên sống trên mặt nước vẫn thường như vậy, không mấy khi mặc yếm áo, để khỏi vướng víu khi chài lưới cá tôm, trừ khi phải lên bờ đi chợ mua gạo, mua dầu… Chị tự trách mình lúc đêm gấp quá và cũng hoảng quá, quên khuấy mất. Vạn thuyền nhà chị ngày hôm đó trúng mẻ lưới cá bầu. Người chồng tự thưởng một chầu rượu. Bạn nhậu là cô vợ trẻ và cậu con trai nhỏ. Thật ra chỉ một mình anh ta uống, vợ con chỉ ngồi cho vui mâm rượu mà thôi. Họ ngồi với nhau đến khuya thì anh chồng say lê lết, nằm xoài ngáy như sấm. Chị dọn dẹp xong, nhìn chồng, nhìn nước. Ý định trốn đi vụt đến. Thời cơ có một không hai đây rồi! Chị đã tự liệu sức mình, cái sức mà chồng chị không thể lường trước được, hoặc đã tin cậy nên không muốn lường. Không có người đàn bà nào, dù đàn bà đẻ trên đầm phá, lại có thể bơi từ giữa phá vào bờ, xa có đến sáu bảy cây số!
    Nằm nghỉ một lát lại sức, chị xốc con ngồi dậy, nhìn quanh để xác định phương hướng. Đây là trảng cát, vậy bên kia là bờ biển, dọc sát biển là làng. Chị nhắm hướng trước mặt, chạy gằn. Chị cần tìm một cái gì để che thân trước khi gặp người thứ nhất trên cạn. Đứa con gái đã bú no, ngủ ngặt nghẽo trên tay, hơi thở của bé phả âm ấm chỗ xương bả vai chị. Có tiếng gà gáy xa xa. Trời xem chừng đã hơi loang loãng, sắp sáng rồi. Chị chạy gấp thêm, nhắm cái vệt mờ mờ xám xám của xóm làng đằng xa mà băng tới. Đôi vú trần trẻ trung của chị nảy tưng tưng. Trước mắt chị là một chiếc cầu và phía bên kia, chị đã nhìn rõ ánh đèn le lói trong ngôi nhà ai đó khuất lấp qua một khu vườn rậm rạp cau dừa. Chị đoán sau xóm này chắc là chợ làng. Ở cái chợ này, ngày mai chị sẽ kiếm vài thứ cần thiết và đi tiếp, đi tiếp. Lần hồi, hỏi han… thế nào cũng có ngày chị sẽ về đến quê hương làng xóm, gặp lại cha mẹ, bà con xóm giềng của chị. Bố mẹ của chị ngày đó mất chị, chắc họ cũng đã quay về, lòng dạ đâu mà đi tiếp nữa, chị chắc chắn như thế…
    Một vật ngáng làm chị bổ ngửa người ra sau, suýt nữa thì hất đứa con gái xuống đất. Chị định thần nhìn. Thì ra mải suy nghĩ chị đã không kịp thấy những thanh chắn cửa một khu vườn. May mà chúng chỉ là những thanh tre tròn, không có gai mấu gì. Vừa lúc chị đứng dậy phủi bụi cho con nhỏ thì một giọng đàn bà cất lên thong thả, thản nhiên:
    - Ai đó? Đi đâu sớm thế?
    Chị luống cuống chưa biết nói gì. Từ trong nhà, người vừa hỏi đã xách cây đèn bão nhanh nhẹn đi ra. Chị co rúm người lại, ngồi nép vào bóng tối của bụi chuối. Ánh đèn đã soi rõ mặt chị. Người vừa hỏi là một bà già chừng sáu mươi. Thấy hai mẹ con chị trần như nhộng, lại run lên vì sợ hãi, nhìn khuôn mặt còn quá trẻ của chị không có vẻ gì dối gian, bà bỗng động lòng hỏi:
    - Chị ở đâu đến đây? Ai đuổi bắt chị hả? - Bà nhìn đứa bé gái bụ bẫm - Con của chị đó à?
    - Dạ thưa bà… thưa bà…
    - Chị đừng sợ, nói đi nào! À mà khoan, hãy vào nhà cái đã. Cháu nhỏ đã lạnh run cầm cập lên rồi kia kìa. Vào nhà, tôi lấy áo quần cho mà mặc!
    Linh tính cho chị biết rằng chị đã gặp may. Chị như bị hút theo bà già. Bà mở toang cánh cửa khép hờ. Đặt cây đèn bão xuống góc nhà, bà vặn to ngọn đèn tọa đăng đặt trên sập. Ánh sáng lan tỏa khắp gian nhà. Bà đi vào gian trong. Chốc sau bà mang ra một mớ áo quần, nói như ra lệnh:
    - Chị mặc vào ngay kẻo lạnh. Ra sau hè mà thay!
    Chị bàng hoàng như trong giấc mộng, rùng mình như đang sống trước cảnh bụt hiện. Bà già đứng đó, mỉm một nụ cười thương cảm nhìn hai mẹ con chị giờ đã áo quần tinh tươm, mái tóc đốm bạc của bà phơ phất, phơ phất…
    Tự bao giờ, có lẽ lúc mẹ con chị thay áo sau hè, một mâm cơm có cá kho, dưa chua đã đặt bên phản dưới. Bà già đến ngồi lên sập, chân co chân duỗi, nhai trầu chóp chép:
    - Cơm khi tối còn lại đó, nguội cả rồi, nhưng tạm ăn đi cho đỡ đói. Ăn có sữa cho cháu nó bú. Chuyện chi nói sau. Trời sắp sáng rồi đó!
    Bây giờ chị mới thấy bụng cồn cào ghê gớm. Con bé chị gần như suốt đêm ngâm mình dưới nước, giờ được mặc ấm liền chuồi khỏi tay chị lăn ra ngủ, đầu ngoẹo về một bên, hai tay khuỳnh vuông góc, hai chân chạng ra, ống hơi khép vào, nom như con ếch đang bơi…
    - Cha cha. Con nhỏ ngủ "dễ ghét" chưa? - Bà nắc nỏm.
    - Được mấy tháng rồi?
    - Dạ thưa bà, cháu được chín tháng rồi ạ.
    Chị nhìn bà. Trong thoáng chốc, chị tưởng trước mặt mình là mẹ. Mà phải, giờ đây nếu mẹ còn sống, chắc mẹ cũng bằng ngần ấy tuổi như bà. Ôi mẹ ôi…! Nước mắt chị lã chã rơi xuống bát cơm. Chị vừa ăn vừa kể lại…
    Trời sáng rõ lúc nào không ai hay. Bà già khẽ thở dài, thõng hai chân xuống quờ tìm dép, ngoảnh mặt vào bên trong gọi to:
    - Quý! Quý! Dậy con! Dậy rửa mặt, ăn uống rồi đi học kẻo trễ giờ con!
    Chị luống cuống, ngại ngùng đứng lên. Bà già nói:
    - Chị cứ nằm ngủ đi một chặp cho lại sức. Con Quý là đứa con gái út của tôi, đang học lớp nhì trường tổng. Nhà chỉ có hai mẹ con. Có thằng anh nó nữa, nhưng vắng nhà, đang học trên tỉnh, thỉnh thoảng mới về thăm. Thôi nằm ngủ đi!
    - Dạ thưa bà, cháu không ngủ. Cảm ơn bà đã giúp đỡ mẹ con cháu. Giờ xin phép bà cho mẹ con cháu đi…
    - Đi đâu?
    - Dạ thưa, đi…
    Bà già nhíu trán, im lặng một lúc rồi thủ thỉ tâm sự:
    - Ông nhà tôi mới mất năm ngoái, nhà giờ đây neo đơn lắm, vắng vẻ lắm. Tình cảnh của chị nghe thật thảm thương, đường ra Bắc lại xa xăm mù mịt, mẹ con chị thân gái dặm trường, làm sao đi tới nơi về tới chốn cho được yên bình? Tôi nói thế này coi chị nghe có được không: giờ mẹ con chị cứ ở lại đây với tôi, giúp tôi coi ngó việc trong nhà ngoài vườn, chờ lúc nào thuận tiện, chắc ăn, để xem đường sá xe đò ra sao đã rồi hãy lên đường. Tôi coi chị như con, bé gái nhỏ như cháu…
    Chị ngẩn người, nghe có cái gì chẹn ngang cổ họng, cứ nghẹn ngào nhìn chăm chắm vào bà già mà không nói được câu nào. Không ngờ câu chuyện lại xoay sang hướng này, cái hướng mà chị chưa bao giờ nghĩ tới. Số phận của chị ông trời đã định như thế này chăng? Ôi bà ôi…

    3. Truyến trở về nhà khi trời vừa chạng vạng. Anh chuyền va ly qua tay trái, lấy tay phải nhẹ nhàng đẩy các ống tre then cài vườn, bước vào.
    Trời vừa mưa giông lúc chiều, những giọt nước còn đọng trên các sợi dây thép chăng làm dây phơi giăng hàng long lanh như những dây cườm. Truyến nhìn quanh, bỗng thấy có điều gì lạ vương vấn đâu đây. Những vệ lan tóc tiên hai bên sân dường như được vun vén lại, cả những sợi cỏ râu mèo mọc len vào các gốc của chúng cũng được nhổ sạch sẽ. Bờ chè tàu làm hàng rào ngăn cách nhà với vườn cũng được cắt xén bằng bặn và phẳng phiu như có thể nằm lên trên được. Cái lu đựng nước đầu hè kia hình như cũng được bắt thêm một cái máng nhỏ bằng những chiếc mo cau chằm rất khéo đặt vát vào miệng, để hứng được nhiều nước mưa từ hàng giọt tranh chảy xuống. Còn đằng này, cạnh cửa sổ nơi anh vẫn kê chiếc bàn ngồi học thì mọc lên ở đó từ bao giờ một khóm dạ hương đang kỳ lấm tấm…
    Một giọng hát khe khẽ cất lên khiến Truyến giật mình:
    Ờ… hờ hơ… ngó lên hòn Kẽm đá dừng
    Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
    Ơ… hờ… hờ…
    Anh lắng nghe và lấy làm lạ rằng sao cô em gái nhỏ của mình mới đó mà đã hát được giọng người lớn và đổi âm sắc đến thế. Anh hèm một tiếng, cất giọng gọi:
    - Mẹ ơi!
    Tiếng hát ngưng bặt. Mẹ anh bước ra, tay bồng đứa con gái nhỏ:
    - Con đã về đó hả Truyến? Nghỉ hè rồi ư?
    - Dạ. Ủa cháu bé con ai thế mẹ?
    - Ờ ờ - Bà mẹ vỗ vỗ vào má đứa bé, nựng - Cháu bà đây mà! Cháu ngoại cưng của bà đây!
    Truyến đặt va ly xuống sập, trố mắt ngạc nhiên nhìn mẹ, nhưng lại hỏi chuyện khác:
    - Quý đi đâu hở mẹ?
    - Nó đi qua chơi với con bạn bên xóm. Nói để mượn sách đọc, dặn nhà đừng chờ cơm.
    - Khi nãy ai hát thế mẹ?
    Bà mẹ gọi với xuống nhà dưới:
    - Đào ơi! Lên đây! Anh con đã về này!
    Một khuôn mặt hiện ra cùng với vòng tay lễ phép khoanh lại trước bụng:
    - Dạ thưa cậu. Cậu mới về nghỉ hè!
    Người con gái da ngăm ngăm, vẻ mặn mà in rõ trên cánh môi hơi dầy và đôi mắt mở ra tròn to màu nâu cháy vừa chân chất lại vừa như chứa đựng điều gì bí ẩn, làm Truyến bỗng cảm thấy nửa như yên ổn nửa như hoang mang. Anh không biết nói gì, chỉ gật đầu nhẹ để đáp lễ, nhìn mẹ như chờ đợi sự giải thích.
    Bà mẹ mỉm cười:
    - Em Đào người ngoài Bắc, lỡ vận sa cơ, mẹ mới nhận làm con nuôi hồi đầu năm. Thôi nói chuyện sau, bây giờ xuống dọn cơm ăn cái đã!
    Đào xuống bếp. Lát sau cô bưng mâm cơm lên:
    - Mời mẹ và cậu xơi cơm! Con để phần cho cô Quý rồi ạ.
    - Ngồi đây ăn cơm luôn đi con. Cậu, cậu cái gì. Gọi bằng anh nghe chưa?
    - Dạ, xin phép mẹ, con còn cháu nhỏ, sợ nó quấy. Để con chờ chút, ăn sau cùng cô Quý cũng được ạ!
    Truyến rửa ráy, thay quần áo xong, đi ra.
    Hai mẹ con ngồi vào mâm.
    Suốt từ lúc về nhà đến giờ, Truyến không sao xua được cái cảm giác lạ lùng là vừa thanh thản lại vừa phấp phỏng như sắp có điều gì xảy ra. Người thiếu phụ trẻ nọ có mặt trong nhà anh mà mẹ anh - qua lời kể lại cùng với thái độ đối xử của bà - đã như là một sự hiển nhiên, đã xảy ra rồi, dù anh có muốn hay không cũng vậy. Từ bé đến giờ, và có lẽ mãi mãi về sau - chừng nào mẹ anh còn sống - anh vẫn có thói quen nhìn nhận những việc làm của mẹ đều xác đáng, đều như là của chính mình, phải vậy chứ không thể khác. Vậy thì điều gì sẽ xảy ra sắp tới, ít nhất là đối với anh, trong kỳ nghỉ hè này?
    Truyến hình dung lại mọi sự việc. Anh không thể nào tưởng tượng cô gái mới hai mươi mốt tuổi nọ đã là mẹ của hai đứa con, là vợ của dân chài đầm phá mà người trong vùng anh vẫn thường gọi một một cách vừa sợ hãi vừa khinh khi là "bọn mọi đầm". Dĩ nhiên, gia đình anh là gia đình nho học, biết tôn trọng và thương yêu con người; anh lại là dân tây học, anh không bao giờ chấp nhận cách đánh giá đó. Trường hợp này, trường hợp Đào, liệu bà con hàng xóm có nghĩ rằng mẹ anh đã mua chuộc người con gái vạn đầm kia để biến cô thành người làm công không? Điều này khó xảy ra vì chuyện chạy trốn của cô không ai hay biết. Và tấm lòng nhân hậu của mẹ anh, của gia đình anh, thì trong làng không ai nghi ngờ. Rồi về phần cô gái, một ngày nào đó phải ra đi, lúc bấy giờ tình cảm của cô và những người trong gia đình anh đã sâu nặng, liệu mọi người trong cuộc có đủ sức để thu xếp làm sao cho trọn nghĩa vẹn tình…?
    Bao nhiêu ý nghĩ dồn dập làm Truyến trằn trọc, không sao ngủ được. Cô em út đi chơi với bạn học xóm bên về khuya, đang thủ thỉ rúc rích chuyện gì đó với mẹ con Đào nhà dưới làm cho lòng anh thêm xốn xang, bứt rứt. Anh ngồi dậy, đi ra vườn. Mảnh trăng non thượng tuần lai láng, trải một lớp ánh sáng như màng tơ màu vàng chanh trên cây lá…

    4. Ngày tháng qua nhanh.
    Truyến trở lại thành phố với những dự cảm ngọt ngào êm ái. Chỉ còn năm học cuối cùng nữa thôi, anh sẽ tốt nghiệp tú tài toàn phần.
    Ba tháng hè tưởng như dài hóa ra quá ngắn. Khác với các kỳ trước, kỳ này Truyến không nhấp nhỏm về ngày lên trường sớm với bạn bè, với đèn sách. Anh cũng tự hỏi lòng mình vì sao. Câu trả lời vừa mơ hồ vừa rõ rệt thoáng qua trong óc làm anh mỉm cười bâng quơ. Anh bước lên đò đúng lúc đò đã khẳm, người lái đò nhẹ nhàng xô ra, nhảy lên. Gọi là đò ngang nhưng dòng sông ở đây rộng ngút mắt. Đó chỉ là một trong những nơi eo thắt lại của cả một dải đầm phá chạy dài từ cửa Thuận đến cửa Tư có đến dăm chục cây số, và chiều rộng của nó thì có nơi phình ra mênh mông như biển cả, chẳng biết nơi đâu là bến là bờ. Đây là vùng giang sơn riêng của các vạn thuyền quanh năm sống trên các mặt nước, với bao nhiều chuyện huyền bí, bao nhiêu tập tục lạ lùng của người dân quanh năm ở trần ở lổ như con cá con tôm, kể cả đàn bà con gái. Đây cũng là nơi mà từ xa xưa đã là nỗi kinh hãi cho những ai mới lần đầu đặt chân tới hay phải vượt qua:
    Thương em anh cũng muốn vô
    Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang
    Câu ca dao dân gian đó kể từ lúc xuất hiện cho đến bây giờ và mãi mãi về sau, luôn luôn được chắp nối phần tiếp theo cho hợp với tình cảnh từng lúc từng nơi, từng con người từng số phận…
    Ngồi trên đò, Truyến miên man suy nghĩ. Chuyện dân đầm phá đi bắt vợ, anh đã từng nghe kể, tuy chưa được nhỡn tiền, nhưng cũng như bao nhiêu người khác sống trên cạn, anh tin là có thật. Bởi nếu không, thì trai vạn đầm chỉ có thể chết già mà thôi, gái trên bờ không ai dám lấy họ cả. Rằng ban ngày họ rời thuyền, lảng vảng các chợ búa quán lều, dò la đàn bà con gái thất cơ lỡ vận, ăn mày, ăn xin để dễ nhập bọn, dễ hòa đồng. Rồi đêm tới họ vác bao tải đi, nhét một củ khoai hoặc cục cơm vào mồm cô gái định bắt, trùm bao vác về, chèo thuyền ra giữa vời phá bao la. Người bị bắt về, bất kể lớn hay nhỏ đều trở thành vợ của họ, còn nhỏ thì họ muôi cho lớn; dạy cho thành người đầm phá chính hiệu, đợi đến ngày nở nang có thể làm vợ được…
    Người dân đầm phá tin rằng Hà Bá đã cho phép họ làm như vậy, cho họ được cái quyền tạo ra người nối dõi, gìn giữ nghề truyền thống của cha ông họ, tiếp nối giòng máu riêng của dân đầm phá.
    Truyến thoáng mỉm cười nhớ lại. Một hôm đang ngồi đọc sách Truyến thấy cô gái cứ lấp ló, thập thò, chốc lại vén màn nhìn ra, chốc lại đi vòng ra sau cửa sổ cúi xuống làm cái gì đó như nhổ một cây cỏ chẳng hạn, nhưng mắt thì liếc trộm anh. Anh thấy hơi khó chịu, gấp sách lại, cầm bút viết vài câu bâng quơ, bất chợt, gọi là cho có việc làm và cũng để có một khoảng lặng trong đầu nghĩ xem chuyện gì đang đến đây. Một cái chạm lướt đằng vai sau làm Truyến hơi giật mình quay lại, cái chạm mà anh biết chắc không phải là bàn tay mà chỉ là tà áo hoặc cái gì nhẹ mềm tương tự. Anh hơi quắc mắt:
    - Em làm gì vậy hả Đào?
    Đào như bị bắt quả tang, đứng khựng hơi cúi mặt, đôi má bừng đỏ, tay mân mê chéo áo.
    - Dạ… Dạ thưa!
    - Chuyện gì thế, em nói đi!
    Đào ngẩng nhìn lên, nói một hơi như sợ chậm một giây thì không nói nổi:
    - Anh Truyến! Anh dạy em học chữ với. Đời em khổ cực dốt nát lắm anh ơi!
    Truyến như bị bước hụt. Anh nhìn cô gái đứng trước mặt như một kẻ chịu tội, vẻ khẩn cầu van xin toát ra từ dáng điệu chưa quá tuổi ngây thơ làm anh thương cảm quá đỗi. Đã hơn một tháng từ ngày gặp gỡ, đây là lần đầu tiên anh nhìn kỹ cô em nuôi. Trời! Thời gian nhanh như vậy ư? Da dẻ cô không còn ngăm ngăm nữa mà nó mịn màng hẳn lên, cái màu hồng pha chút nâu thoáng làm cho khuôn mặt có những đường nét hơi đầy đầy của má và môi bỗng trở nên sang trọng một cách xa vời. Bộ quần áo mà mẹ anh sắm cho cô bằng lụa màu trái cây ôm khít lấy tấm thân với bờ vai tròn trịa và bộ ngực như ngực thiếu nữ con nhà lành, thì rõ ràng thời gian và cuộc sống bao năm chèo kéo trên mặt đầm với một ông chồng và hai đứa con, chưa hề chạm tới được.
    Truyến hơi sững sờ, giọng dịu hẳn:
    - Em muốn học chữ à? Em không hổ ngươi đấy chứ, Đào?
    - Dạ không! Anh dạy cho em nhé, anh…?
    - Vậy thì được. Ngồi xuống đây! Nhưng trưa nay mẹ về, em phải thưa lại với mẹ và xin phép mẹ.
    - Dạ.
    Cô gái sáng dạ một cách cũng kỳ lạ như chính quãng đời đã trải qua của cô. Gần hai tháng hè còn lại, Truyến đã biến Đào thành một cô gái đọc thông viết thạo, biết làm phép tính thuần thục. Bây giờ Đào có thể đọc truyện cho mẹ nghe mỗi khi rảnh rỗi, các cuốn truyện ấy chất một rương đầy của Truyến gom góp từ hồi còn học tiểu học ở trường tổng. Những ngày chưa lên tỉnh học, công việc ấy là của Truyến. Giờ đây là Đào thay thế…

    5. Ba năm sau khi Đào bị bắt về vạn thuyền.
    Cô bé ngày nào còn đuồn đuỗn như con cá kìm nay đã trở thành một cô thiếu nữ dậy thì, đầy đặn và mỡ màng như con cá đối.
    Ông già chăm bẵm Đào chẳng khác gì con đẻ. Vạn thuyền không phải lúc nào cũng đầy đủ, có ngày kiếm được mớ cá, mớ tôm để đổi lấy gạo, củi cũng cực nhọc vất vả. Song ông già không bao giờ để cô con dâu tương lại phải thiếu đói. Mọi thứ ngọn vật hiếm của đầm phá, vạn khác không kiếm ra thì vạn ông vẫn tìm được. Cá dìa hoa thịt dẻo bùi như hoài sơn tươi, thơm như trầm. Tôm sú rằn con nần nẫn bằng cổ tay, ăn một con no suốt buổi. Cá buôi lườn béo như thịt mỡ, béo mà không ngán, bụng no rồi mà miệng vẫn thèm… Tất cả những thứ đó, ông già không bao giờ kho nấu, hoặc chiên rán lôi thôi, mà bắt dưới đầm lên đang giẫy đành đạch, liền thả vào nồi nước sôi sẵn trên bếp. Muối ớt là thức chấm duy nhất. Cái món nước luộc cá tôm tươi rói đó ngọt lừ, thơm lừng, bổ hết chỗ nói, húp một bát, người đang sốt gây gây lập tức tỉnh ra, nhẹ thênh. Ông già nói những thứ này là của Thần Phá ban phát, thần diệu hơn cả thuốc tiên. Ông già ép cô con dâu nhỏ ăn ngày ngày.
    Đào mười sáu tuổi đã nở nang gấp mấy con gái cùng lứa trên bộ, đôi vú suốt ngày để trần rám màu bồ quân, câng câng trên ngực, hai cái núm hồng hồng cứ chóc lên như thách thức cả trời đất, sông đầm.
    Anh con trai ông già suốt ba năm không lúc nào tỏ ra thô lỗ với cô gái, bỗng một hôm nhìn xoáy vào ngực cô, anh ta không chịu nổi, cứ đấm thụi tay, chân vào ván thuyền huỳnh huỵch, côm cốp. Anh ta như bị lửa đốt, toàn thân rừng rực cháy cả tim gan phổi phèo…
    Ông già nom thấy, hô:
    - Được rồi! Bày lễ cúng Bà Thủy!
    Nghe lệnh cha, người con trai hú lên một tiếng sung sướng.
    Lễ hợp cẩn lập tức được tiến hành. Một thau nước có hai con cá được bưng ra, một chai rượu đặt cạnh. Ông già bày bát hương đầu mũi thuyền, chọn hai cây hương to và một nạm hương nhỏ. Thắp hương khấn vái xong, ông già lại hô:
    - Xuống đầm!
    Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút thiêng liêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước…
    Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi. Thế là kết thúc buổi tân hôn.
    Ông già nhìn con trai và con dâu từ dưới đầm lên, ướt giầm giề. Cô con dâu từ nỗi kinh hoàng ban đầu giờ đã hết sợ. Cô xấu hổ, một tay che một tay khèo vội chiếc quần mặc vào. Còn anh con trai thì rạng rỡ, nước từ tóc tai chảy tong tong xuống ướt cả một vạt thuyền, mặt mày cứ đờ đẫn ra.
    Ông già gật gật đầu mãn nguyện. Ông vớ lấy chai rượu cúng, ngửa cổ dốc ừng ực. Hết chai, ông nằm xoài ra sạp.
    Và từ đó, ông nằm luôn. Mấy ngày sau, ông mất.
    Trước khi đi, ông gọi đôi vợ chồng đến:
    - Cha đã già lắm rồi, việc đánh bủa trên đầm cũng đã hết hơi, chết là được! Hai con phải lo mà làm ăn, sinh con đẻ cái, gìn giữ vạn thuyền, thờ cúng Thần Phá cho phải, cho đúng, nghe!
    Hai vợ chồng chôn cất cha già tử tế. Người chồng trở thành chủ vạn thuyền từ đó. Anh đã ngoài ba mươi nhưng sức vóc, lực lưỡng, chài lưới bơi lặn có tiếng trong vùng. Và cũng như cha anh, anh không bao giờ chịu thua bất cứ người đàn ông đầm phá nào. Anh hiền như sợi rong đầm, chiều cô vợ trẻ như chiều vong. Đẻ xong thằng trai đầu, anh nói với Đào:
    - Em đẻ tiếp mấy thằng nữa, nghe!
    Đào nguýt:
    - Đẻ nhiều không đủ sức, rồi ốm đau bão gió, một bầy con lộn chộn như cua rạm, một mình anh chài lưới, nuôi sao nổi?
    Anh chồng toe toét:
    - Tôi nuôi được! Em chớ lo. Tôi khỏe như ông voi, tôi đánh bắt như con rái mà!
    - Không được! Giờ em mới sinh, con còn non, anh không được…! Khi nào em bảo, anh mới…
    - Ờ ờ phải! Thôi, tôi nghe em rồi. Đừng buồn đừng lo nghe, em!


    6. Chợ Cồn là một khoảnh cát rộng, bụi cây lúp xúp, mô đất rải rác. Gọi là chợ nhưng người ta không họp ở đây mà họp ở nơi khác. Nơi đó mới thực sự là ngôi chợ của làng, nơi hàng ngày người dân trong vùng vẫn đến mua bán, trao đổi các thứ. Còn chợ Cồn là nơi để mỗi năm chỉ họp một lần vào ngày mồng hai Tết. Những người được đến chợ Cồn vào ngày đó là những người ăn mày. Ngoài ra, không ai được đến đó. Bởi vậy, dân làng gọi ngày đó là ngày "lễ hội ăn mày" một cách trịnh trọng. Bất cứ ăn mày trong vùng hay từ đâu đến đều được dự lễ hội. Ai đến trước dự trước, ai đến sau dự sau, không ai phải chờ ai. Nhưng thường không ai đến sớm hơn hoặc muộn hơn giờ quy định. Đó là giờ Thìn. Thìn là rồng, dân làng tin rằng chọn giờ đó sẽ đem lại may mắn, cầu được ước thấy cho những người nghèo đói bất hạnh, phải lâm vào cảnh ăn mày ăn xin.
    Từ tinh sương, các gia chủ trong làng, mỗi nhà một mâm cỗ, to nhỏ tùy theo hoàn cảnh và lòng thiện của từng nhà, bưng ra bày ở chợ Cồn, để ở đấy và về. Kèm theo mâm cỗ là những vật chúc phước khác - cũng tùy ý tùy tâm từng nhà - như pháo, câu đối viết trên giấy hồng điều, bộ bài thẻ ghi phúc lộc thọ hoặc phú quý an v.v… Ăn mày tứ xứ tối mồng một đã kéo về, tụ tập quanh chợ Cồn, nhưng chưa ai được vào, phải đợi giờ hành lễ. Hiệu lệnh bắt đầu do chủ lễ hội gióng lên. Chủ lễ do dân làng cử ra hàng năm, thường là một cụ già. Cụ già khăn áo đàng hoàng làm nhiệm vụ khấn vái thổ thần và gìn giữ trật tự suốt lễ hội.
    Cụ già tay cầm chiêng, chiếc dùi đầu tròn bọc vải đỏ.
    - Ù… ù… ù… bù rù… bù rù! Bù rù!!!
    Một hồi chín tiếng chiêng vừa dứt. Lễ hội bắt đầu. Mọi người ăn mày vào mâm. Muốn ăn gì thì ăn, muốn ngồi mâm nào cũng được, vừa ăn vừa hò hát bất cứ bài gì, câu gì mình thích. Lạ một điều là trong suốt quá trình lễ hội, những người ăn mày, già trẻ, con nít… họ đều từ tốn không hề tranh ăn cướp uống, đàng hoàng và đĩnh đạc như ăn cỗ ở nhà mình vậy. Rồi đốt pháo, rồi khoác lên mình nhau những vật cầu may đầu năm mà dân làng đã dành cho họ, rồi chúc tụng nhau mong cho nhau được mạnh khỏe được mau chóng thoát khỏi cảnh đầu đường xó chợ, sống có cửa nhà, có cái ăn có cái để… Người lớn thì vậy còn trẻ con ăn mày thì tụ tập lại một góc, chơi nhảy lò cò, kéo co, chồng búp chồng bông, tập vồng vông tay không tay có… Những trò chơi dân dã, bình thường mà bất cứ trẻ con nào cũng có quyền được chơi…
    Chờ cho người ăn mày cuối cùng no nê rời khỏi bãi chợ Cồn, cụ già chủ lễ mới gióng một hồi chiêng báo hiệu tan hội. Lúc bấy giờ, các gia chủ trong làng mới ra dọn dẹp mâm bát của mình mang về.
    Từ tối mồng một, gia đình mẹ Truyến - người làng đều quen gọi là bà Hương, theo chức sắc của chồng bà - đã sửa soạn cho mâm cỗ lễ hội ăn mày. Bà sai Đào và Quý, hai chị em sắp sửa mọi thứ để gánh ra chợ Cồn. Là gia đình vào loại vai vế, giàu có trong làng, năm nào cỗ ăn mày của bà cũng to nhất nhì làng. Chợ Cồn cách phía sau khu vườn nhà bà không xa. Đứng ở cuối vườn, có thể thấy khá rõ người đi lại, ăn uống, vui chơi.
    Sau khi gánh cỗ ra bày biện vào mâm xong, hai chị em Đào, Quý về nhà. Nghe tiếng chiêng gióng, Đào rủ Quý ra vườn sau.
    Lần đầu tiên trong đời thấy quanh cảnh lễ hội ăn mày diễn ra, lòng cô gái chợt bừng lên một cảm giác khó tả, bâng khuâng, buồn nhớ, thương tiếc… Những hồi niệm xa gần hiện về trong đầu cô, cái đêm hãi hùng giữa mênh mông đầm phá, rồi lễ cúng Thần Đầm, hợp hôn dưới nước với người chồng vừa như bắt buộc vừa như tự nguyện, rồi sinh nở, rồi thật sự gắn bó với đầm phá, tưởng như không thể di dời… Vậy mà… ôi cái đêm bồng con bơi vượt phá, vừa liều lĩnh vừa hy vọng, rồi lên bờ gặp được bà Hương, rồi cuộc đời bỗng rẽ ngoặt, thực mà ảo, đời như tiên, nào mẹ nào em gái anh trai, con nuôi mà chẳng khác chi ruột rà, chẳng máu mủ mà con hơn máu mủ…
    Đang miên man thả lòng theo dĩ vãng, Đào bỗng giật thót. Bóng một người ăn mày dắt theo đứa con trai đang lách đám đông đi vào giữa lễ hội. Anh ta đội chiếc nón cời, đóng khố lá tọa trước bụng, chiếc bao gai đã rách mướp quàng trên người, tay chống chiếc gậy cong cong sần sùi. Trời, cái lưng khòm khòm như lưng rùa kia thì không thể lẫn được, còn ai vào đó nữa trời! Thằng con trai như có lớn hơn một chút, trần truồng, nhem nhuốc đang nắm tay cha vừa đi vừa ngó nhìn đây đó. Khác với những đứa trẻ con khác, nó không hề nhìn vào các mâm cỗ mà lại lia đôi mắt von vót hình đuôi cá chình xoi mói vào mặt người này, người nọ như thể đang tìm kiếm cái chi.
    Đào ôm ngực, một mũi kim nhọn như đang ngọ ngoạy trong tim cô, cô bước vào nhà lòng rung lên dữ dội.
    - Chị Đào, chị làm sao vậy? - Quý gọi giật.
    - Không sao cả, chị hơi nhức đầu. Quý cứ ở đó xem, chị vào lấy dầu xức, chốc sẽ ra!
    Đào loạng choạng như người say sóng. Bước thấp bước cao, cô vội vàng nhào tới ôm chập lấy đứa con gái đang nằm chơi trên sập với bà, bế vào buồng trong. Bà Hương ngơ ngác:
    - Có chuyện gì vậy con?
    - Dạ không có chi. Con hơi nhức đầu chóng mặt một tí thôi!
    Trong lúc bà Hương như linh tính mách bảo, bước vội ra góc vườn sau thì trong buồng Đào nằm vật ra, nước mắt đầm đìa mặt gối. Cô ư ử rên: "Con ơi! Anh ơi!... trời xui đất khiến thế nào mà cha con giả làm ăn mày lần mò được đến đây? Con ơi! Con nhớ mẹ, trách mẹ lắm phải không? Mẹ lầm lỗi rồi, mẹ nỡ bỏ con mà đi, trời phật ôi… Trên mặt đầm phá kia, mẹ đã qua bao nhiêu đắng cay ngọt bùi, bao nhiêu nước mắt mẹ đã đổ xuống, bao nhiêu nụ cười mẹ đã vớt lên, vậy mà mẹ đành đoạn, mẹ nhấn chìm… Thuyền nốc đâu rồi, chèo lưới đâu rồi, sóng nước đâu rồi… anh ơi! Mẹ Hương ơi! Em Quý ơi, anh Truyến ơi, em biết làm sao bây giờ, sao anh không về bảo cho em biết với…?"
    Đào quằn quại, giằng xé, nỗi niềm rối như tơ vò. Cô nằm liệt giường sau đó.

    7. Người già thường yêu trẻ con, con bé gái của Đào quả đã làm cho bà Hương thỏa mãn tình cảm bà cháu. Bà chăm sóc, dạy dỗ và sắm sửa cho con bé đủ thứ, quần áo đồ chơi, kể cả những thứ đắt tiền phải gửi mua tận trên phố tỉnh, mặc dù con bé mới chập chững biết đi. Hai bà cháu cứ ríu rít cả ngày trong nhà ngoài sân, tiếng cười, tiếng nựng cả già trẻ như không lúc nào vắng.
    Vậy mà lâu nay, sau lễ hội ăn mày, bà bỗng đâm ra tư lự. Không biết bà suy nghĩ điều gì mà thỉnh thoảng bà đi ra đi vào, ra chiều bứt rứt không yên, có lúc bà nhìn hai cô con gái một đẻ, một nuôi chằm chằm như thể đang so đo, lượng định, rồi bà nhè nhẹ thở dài, vừa lấy cau trầu ra giã vừa nhai chầm chậm. Vô tình bà ngước nhìn lên bức hoành phi treo trên xà: Truy viễn đường. Bức hoành phi này được để lại từ thuở ông nội của chồng bà. Tìm nhà xa! Có sự ngẫu nhiên huyền bí gì đây chăng? Tìm nhà xa! Ôi! Bà chạnh nỗi lòng, gọi:
    - Đào ơi!
    - Dạ!
    - Con dọn dẹp xong chưa, lên đây mẹ bảo!
    - Dạ rồi, con lên ngay đây.
    Quý vừa đi học về, chạy vào nhà, quẳng ra ván một cuốn vở, nói ào ào:
    - Chị Đào! Chị làm bài luận này thử coi! Mà chị dạo này nhác lắm nghe, không chịu học, viết gì cả, anh Truyến về em mách, anh mắng cho!
    Đào tay nách con tay cầm cuốn vở giở ra xem, mỉm cười gật gật:
    - À đề ra cũng khó đấy. Nhưng được rồi, chị sẽ làm. Rồi Quý chấm cho chị nghe!
    Bà Hương nhìn thấy quang cảnh ấy, cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Điều bà định nói với Đào bay đâu mất. Bà chợt nghĩ đến Truyến. Dường như anh con trai bà không dửng dưng với quãng đời trước đây của cô gái đầm phá này, và càng không bỏ qua những gì thay đổi nhanh chóng của cô. Có điều chi đó khác lạ trong tình cảm, nếu không thì tại sao lại chịu khó dạy chữ cho cô, việc mà cô có thể nhờ Quý, người gần gũi hơn, thuận tiện hơn? Và bà nữa, điều gì khiến bà đồng tình với việc làm của con trai bà đối với cô gái? Phải chăng chỉ là tình thương con đơn thuần của một người làm mẹ?
    Bà day dứt với tình cảnh hiện tại của Đào. Một cô gái bỏ chồng con ra đi, dù thế nào đi nữa, cũng là chuyện không nên, ít ra là chuyện bất đắc dĩ. Một ngày là nghĩa, một đêm là tình! Nhưng còn bố mẹ cô, quê hương cô, có lẽ nào đó lại không phải là con đường hiếu nghĩa mà cô phải tìm về, phải báo đáp? Giữ cái nghĩa này, bỏ cái nghĩa kia đâu phải là chuyện hay ho. Phải làm sao cho vẹn cả đôi bên chứ!
    Đã mầy lần bà thu xếp nhưng rồi lần lữa không muốn để Đào ra đi. Cũng là vì mẹ con cô ấy nữa. Không biết rồi có tìm được quê không, hay lại sa cơ lần nữa. Đường đời bất trắc biết đâu mà lường!
    Tự sâu trong lòng, bà yêu thương Đào như con đẻ, phải dứt bỏ tình cảm đó, bà thấy đau đớn như mất đi người ruột thịt. Nhưng cứ giữ mãi cô ở lại, liệu bà có được yên ổn trong lòng, mặc dù vậy, cuộc đời cô gái sẽ có thể được đảm bảo hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn. Lâu nay bà để ý thấy mẹ con Đào hay tha thẩn ở góc vườn sau, lòng mẫn cảm của người mẹ đã đoán định được rằng tâm tư Đào đang bị dày vò, giằng kéo bởi đi hay ở, mà đi thì đi đâu?
    Trở lại với chồng con vạn thuyền đầm phá hay tìm về nguồn cội cha mẹ để xây dựng lại cuộc đời đã một lần cơ nhỡ? Trong hai đường ấy, đường nào thuận lẽ hơn, hợp với nhân nghĩa hơn, trọn vẹn hơn. Nhưng mà, trong hai đường ấy phải chọn một, không thể chọn đường thứ ba là ở lại với bà. Nghĩ đến điều này bà Hương thấy lòng đau nhói…

    8.Truyến tốt nghiệp vào loại ưu. Qua giới thiệu của một ông chú họ công chức lâu năm trong ngành đường sắt, anh được bổ đi làm ở một nhà ga tại Quảng Bình. Anh về quê nghỉ một tuần trước khi trở lại thành phố, lên đường đến nhiệm sở.
    Trên con đường cát dẫn từ bến đò, nơi thắt lại của dòng sông nối liền với giang sơn đầm phá mênh mông và kỳ bí, Truyến rảo bước để kịp về nhà trước khi trời tối. Lòng anh hồi hộp như mỗi lần về quê thăm mẹ thăm em sau những ngày đêm chúi đầu vào đèn sách. Nhưng lần này anh tự phát hiện trong sâu thẳm lòng riêng, còn có một cái gì thoắt ẩn thoắt hiện làm anh gần như chơi vơi một cách dịu ngọt. Người con gái lạ lùng hơn một năm trước đây xuất hiện gần như bất ngờ ở nhà anh như một ngọn gió, một ngọn gió vừa quen thuộc lại vừa hoang vu như ngọn gió chướng thường thổi trên mặt đầm vào tiết chớm xuân. Ngọn gió ấy làm cho người ta thốt rùng mình vì hơi lạnh xa xôi nó mang về, vội khép lại tà áo. Cùng lúc là một nỗi khấp khởi gần như hy vọng về những ngày sắp tới tràn trề nắng ấm dịu trong sự nấn ná của cái rét mùa đông.
    Truyến bước vào cổng vườn quen thuộc có những thanh chắn bằng ống tre khô đã nhẵn bóng. Anh chăm chú nhìn như thể thấy được dấu tay người thiếu phụ trẻ vừa lạ vừa quen bao năm nay đã in lên đó. Bất giác anh mỉm cười, nhớ lại những cảm giác trong kỳ nghỉ hè vừa qua. "Không, không phải như thế!". Anh tự nhủ lẩm bẩm mà không biết mình đang nghĩ gì nói gì. Như một ánh chớp lóe lên trong đầu, Truyến ngừng bước, mắt anh chạm phải cành dạ hương bị gió đánh gãy rũ xuống bên cửa sổ. Không biết vì sao anh vụt nhớ đến một thiên truyện cổ bằng tiếng Pháp mà anh đã đọc đâu đó không còn nhớ tên nhan đề và tác giả của nó. "Một hoàng tử trong một buổi đi săn trong rừng gặp một người con gái điên. Chàng thương xót, đem về dinh riêng. Giấu vua cha, hoàng tử nuôi nấng chăm sóc người con gái điên với tất cả tấm lòng nhân hậu quý báu của mình. Người con gái tưởng tượng hoàng tử là người tình của mình đã bị chia rẽ bao lâu khiến nàng trở nên điên dại. Hoàng tử do muốn đưa lại cuộc sống bình thường cho người con gái nên cũng không nỡ nói lên sự thật. Một ngày kia người con gái hết điên, cũng là lúc người tình của nàng xuất hiện sau bao nhiêu năm chàng ta lang thang khắp chốn tìm kiếm bóng dáng người yêu. Nhưng hỡi ôi, chàng ta bây giờ đã trở nên ngớ ngẩn do bị bọn dã tâm chia rẽ hai người đã hành hạ. Người con gái nửa muốn trở về với người yêu nửa muốn ở lại với hoàng tử, lúc này hai người đã chớm nở tình yêu. Hoàng tử biết chuyện, hết lời khuyên nàng trở về, mặc dù trong lòng chàng đau như dao cắt. Người con gái một ngày nọ ra đi với người yêu cũ, nước mắt nàng dài theo bước chân tiễn đưa của hoàng tử. Hoàng tử trở về dinh đau đớn và ngạc nhiên thấy nơi những giọt nước mắt nàng rỏ xuống đất bỗng mọc lên một hàng cây có những cành lá mềm tươi nhưng cứ rủ xuống, thướt tha mỗi khi làn gió lướt qua. Người ta sau này gọi cây đó bằng cái tên "cây liễu rũ".
    Truyến bước vào nhà. Cảnh tượng đập ngay vào mắt anh là mẹ và em gái mỗi người ngồi một góc, đang trễ tràng làm gì đó, mẹ têm trầu một cách băn khoăn, bồn chồn, còn em gái thì đưa những nhát lược lên mái tóc với vẻ lười biếng, nhát gừng. Hai mẹ con lơ đễnh đến mức không nhìn thấy anh xuất hiện, bóng dáng cao và hơi gầy của anh che tối cả khung cửa ra vào. Anh lên tiếng:
    - Mẹ, mẹ mệt à? Có chuyện gì phải không?
    Quý ngước lên, òa khóc, chạy đến níu khuỷu tay anh trai:
    - Ối anh đã về, chị Đào đã đi rồi, anh ơi!
    - Đi đâu, hả. Đi đâu? - Truyến giật giọng.
    Bà Hương thở dài, ra hiệu cho con trai ngồi xuống rồi điềm tĩnh, thẽ thọt, bà nói:
    - Mẹ con nó về quê tìm lại bố mẹ anh em. Vậy là đã thấm thoát gần mười năm trời lưu lạc. Mẹ đã suy nghĩ nát nước nát cái ra rồi, Truyến ạ. Gia đình ta hơn một năm qua đã coi nó như là một người cùng dòng máu. Không ai muốn cắt chảy dòng máu của mình. Nhưng mà không được, con ơi. Trước sau gì rồi cũng phải lo liệu cho tròn đạo lý. Đã nhiều lần, nó cũng muốn thưa với mẹ, nhưng rồi tình cảm ngày một gắn bó, nó cũng lần lữa, đi không dứt, ở cũng không đành, dằn vặt, khắc khoải đêm ngày. Mẹ và em Quý cũng vậy, chuyện chưa tới thì chưa nên bàn, nhưng mà phần con, con đâu có phải như gió thổi ngoài đầm, mây bay trong núi… Nó ra đi mà bước chân nặng trĩu. Đêm qua bốn mẹ con bà cháu đã khóc hết nước mắt đó con ơi! Nó vừa đi lúc trưa. Phải chi con về sớm một buổi thì anh em đã gặp nhau rồi…
    Truyến im lặng ngồi nghe, lòng buồn rười rượi. Hồi lâu, anh đứng dậy:
    - Thưa mẹ! Cô ấy tìm về quê là phải. Con cũng biết thế nào cũng có ngày đó, con đã dự định rằng: Con về sẽ đưa cô ấy đi. Từ đây ra Ninh Bình đường sá xa xôi, biết điều gì trắc trở, khó khăn dọc đường sẽ xảy ra? Nhưng muộn rồi, tăm cá bóng chim, biết đâu…
    Truyến ngừng, đi đi lại lại. Bỗng anh chụp vội mũ lên đầu, xách quai va ly lên:
    - Thưa mẹ, mẹ hãy cho phép con đi tìm cô ấy, thế nào cô ấy cũng lên Huế để từ đó kiếm cách ra Bắc. Con sẽ tìm được cô ấy! Nhất định sẽ tìm được!
    Truyến gấp gáp, vội vàng luống cuống, khác với bản tính thường ngày của anh.
    Bà Hương nhìn con trai vừa lắc đầu vừa gật gật, trong lúc Quý trố mắt tràn đầy những hy vọng nhìn anh rồi lại nhìn mẹ, mồm cứ há ra…
    Ngoài sân, chiều đã sậm. Những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu xiên từ các vòm cây vườn xuống, vẽ thành những đường chéo sáng vàng, run run theo làn gió nhẹ vừa lướt qua…

    9. Chị quấn chiếc địu bà mẹ nuôi đã may cho thêm một vòng quanh eo lưng, buộc hai múi thắt lại. Có vẻ nhẹ hơn rồi! Con bé nằm trên lưng chị, y như nó nằm ngủ ở nhà, lúc nào cũng tay chân xoãi ra như con ếch đang bơi. Chị quay đầu nhìn chừng con. Nó đang liu riu ngủ theo nhịp chân mẹ dùng dằng trên đường về. Chị hình dung trong đầu khi chị bước chân vào mái tranh thân yêu ở quê nhà. Cha mẹ chị giờ chắc đã già thêm, nhà cửa ao vườn kỳ đói kém chắc đã trở lại xanh tươi mỡ màng. Gia đình chị không còn thất tán, lại trở về đông đủ sum họp như xưa. Dòng sông Hoàng Long quê chị vốn đậm đặc phù sa như đang vẫy gọi chị về.
    Trời ngả về chiều. Đã qua một ngày chị rời mái nhà thân yêu không phải của chị mà còn hơn của chị. Ở đó, có biết bao kỷ niệm êm đềm, biết bao nỗi niềm sâu kín mà níu kéo, mà giằng co. Từ cái ngày lễ hội ăn mày nọ, bóng dáng chồng và con trai tưởng đã gửi lại, trả lại cho mù sương mặt đầm mỗi đêm dài thấp thỏm, cho trải nắng màn mây mỗi sáng mai đợi mong, bỗng trồi lên trong lòng chị vừa tan loãng, vừa như có hình khối rõ ràng. Chị đã muốn xóa đi tất cả, lãng quên để bước vào cuộc đời khác, nhưng là cuộc đời của chị, do chị định đoạt. Oái oăm thay, không những chị đã không thanh thản mà còn bị xáo động, bị đánh thức, những ngày gần đây nó còn làm rối tung cả những ước mơ đẹp đẽ của chị nảy sinh từ những tấm lòng như của bà Hương, anh Truyến…
    Phải chăng chị trốn khỏi đầm phá là một sai lầm, hơn nữa là một tội lỗi? Vạn thuyền chị, chồng con chị nào có lỗi lầm gì mà phải gánh lấy nỗi đau mất mát? Dù bị bắt buộc nhưng giọt máu của chị đã rơi ra, giọt máu ấy cũng thiêng liêng như bất cứ giọt máu của người mẹ nào, trên cạn hay dưới đầm cũng là người mẹ, cũng là nỗi đau và hạnh phúc, sao chị lại dứt bỏ nó, từ chối nó?
    Đã mười năm nay chị chèo kéo trên mặt đầm, lớn lên cùng sóng nước, thở theo nhịp thở của thủy triều lên xuống, con tôm, con cá đã là bạn bầu của chị, trời nước bao la đã là tầm nhìn của chị, màu nước sắc mây đã là dung nhan của chị, sao chị lại dễ dàng đánh mất…?
    Đang bước nhanh, chị thốt dừng như bị một bàn tay nào đó níu lại. Chị ngồi xuống bên một gốc cây, cởi địu, lấy nắm cơm mà Quý đã vắt gói trong bẹ tàu cau lụa, bẻ một miếng cho con ăn. Con bé cười toe, ngọng líu cái giọng tập nói: "Măm măm mẹ, ùi!".
    Đoạn đường dài với nỗi lòng lê thê suốt gần một ngày ròng rã đã làm chị mệt nhoài. Chị uống một hớp nước trong ống tre mang theo, hai mắt từ từ díp lại, chìm dần… chìm dần…
    "…Lễ nhập vạn đò của dân chuyên sống trên mặt đầm phá diễn ra trên lòng thuyền, đơn độc giữa vời phá mênh mông. Bốn phía là trời là nước, nước và trời. Bến bờ chỉ là những sợi chỉ mong manh, mờ mờ tít tắp, tưởng như chèo hàng tháng hàng năm mới tới.
    Người nhập vạn giờ đây là chị, một cô bé mười ba tuổi.
    Một chậu nước đặt ở ván đầu mũi thuyền, nơi vẫn diễn ra các tập tục riêng biệt của người dân đầm phá. Trong chậu, lượn lờ một con tôm, tượng trưng cho bản mệnh người nhập vạn. Cá tràu hoặc cá ngạnh là tượng mệnh người trai. Con bống hoặc con tôm là tượng mệnh cho người gái. Trên mũi thuyền, con sào chống vát lên thành góc chéo trên chỗ bịt sắt buộc một dải vải đỏ bỏ thõng hai múi, tượng trưng cho sức mạnh dân vạn đầm, hai mái chèo gác hai bên chìa ra khỏi lòng thuyền theo hình vây cá, tượng trưng cho lòng chung thủy với nghề sông nước.
    Cuộc hành lễ đơn sơ mà tráng lệ. Ông già cởi trần, ngực quấn một vòng vải đỏ như dải trên đầu sào, cầm một bó hương nghi ngút khói cắm lên đầu mũi thuyền. Đoạn ông lui về sau, rạp đầu lạy hai lạy, đan hai bàn tay vào nhau khuỳnh lên ngang trán, khấn xin. Xong, lạy tiếp hai lạy nữa. Bấy giờ chị - người nhập vạn, cũng cởi trần như thân chủ - mới đứng lên đu vào hai cánh tay của ông già và anh con trai bện chặt lấy nhau như một sợi dây. Hai người đánh võng chị và hú: "Hu hầy! "Hu hầy! "Hu hầy!". Đến nhịp thứ ba thì chị buông tay để toàn thân rời "sợi dây" rơi tự do xuống đầm. Người ta nghe tiếng rơi của người mới nhập vạn để biết lòng Thần Phá. Tiếng rơi càng to càng gọn là Thần Phá vui lòng. Tiếng rơi xòe ra, lọc bọc, loc bóc… là Thần Phá không ưng, phải làm lễ khác vào một ngày khác.
    Hai người vạm vỡ nên đánh võng mạnh quá làm chị sợ hết hồn co rúm cả bốn chân lại, người như một cục thịt tròn vo. Chị rơi như một hòn đá rơi. Mặt đầm bị chị khoét một lỗ thủng chui tọt xuống gọn gàng như không. Vậy là Hà Bá đã chấp nhận một người con mới của đầm phá. Thân chủ vái tạ. Bó hương cháy dở và các dải vải cúng điếu được thả xuống đầm cùng với con tôm bản mệnh. Lễ tất…"
    Cùng lúc, tiếng lao xao ơi ới của người qua ngang gọi đò. Chị bừng tỉnh, chiếc đò ngang đã cập bến. Sang bên kia, dấn thêm non nửa buổi nữa là chị sẽ đến ven thành. Chị như nghe rõ tiếng gọi: "Đào ơi... ời" cùng cái vẫy tay quấn quýt của mẹ chị trước mặt. Rồi chị thấy hai cánh tay như hai cách chim non của thằng con trai lên năm đứng trên thuyền cạnh cha nó với tấm lưng khòm khòm như mu rùa mốc thếch rong rêu đầm phá. Thoắt cái, chị lại thấy hiện lên bóng ông già cùng lời trối trăng của ông văng vẳng bên tai. Thoắt cái, chị mường tượng hai cha con tơi rách nón mê lùi lũi đi giữa lễ hội ăn mày, đôi mắt von vót đuôi cá chình của nó không thèm liếc ngang mâm cỗ mà lại liếc xéo lên mắt chị như trách, như hỏi, như cầu mong chị trở về. Có lẽ, hai cha con không chỉ một lần đó, còn bao lần nữa rạc cả người, hết cả hơi, đi tìm chị…
    Từ đâu đó, một giọng hò cất lên, vô tình mà làm lòng chị như muối xát:
    Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
    Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm
    Tìm em như thể tìm chim
    Chim ăn biển Bắc anh tìm biển Nam…
    Đang dợm chân bước xuống đò bỗng chị rên "ồi ồi" một tiếng trong cổ họng, rồi vụt quay người, chạy lui. Con bé trên lưng chị bị ngật đầu một cái, khóc ré. Chị vừa chạy vừa vỗ vào mông con. Con ơi! mẹ con ta trở lại với vạn thuyền với sóng nước, con à! Đừng khóc con ơi! Con sẽ gặp lại cha con, anh con, con à…
    Chị cứ cúi cổ chạy, như thể nếu quay đầu lại nhìn một thoáng thì không thể nào trở lại đầm phá được nữa…

    10. Đó là chuyện hơn ba mươi năm về trước. Sau Cách mạng tháng Tám, tôi là cán bộ lưu dung vẫn làm ngành giao thông ở nhiều nơi trên miền Bắc, năm hòa bình được chuyển về Tổng cục. Phải mấy năm sau, tôi mới có dịp hỏi thăm về tới cái làng nhỏ bé nằm cạnh bờ sông Hoàng Long, Ninh Bình, dò tìm được tung tích cha mẹ cô Đào. Ông bà cụ không may đã mất vì bệnh tình, vì suy sụp vụ mất con dạo đó. Lạ một điều trong làng không ai chứng kiến được mẹ con cô Đào trở về quê hồi đó. Thế là biệt tin. Tôi trở về cơ quan với nỗi lòng nặng trĩu đau buồn. Không biết cô ấy còn hay mất. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy sau khi từ biệt mẹ và em gái tôi ra đi, tìm đường về quê cũ?
    …Rồi cuộc kháng chiến kéo dài, mọi chuyện riêng tư, mọi éo le của hoàn cảnh đều được gác lại một bên.
    Cho đến ngày thống nhất đất nước, tôi mới có dịp trở về quê thăm lại những người ruột thịt và làng xóm nơi chôn rau cắt rốn, sau mấy mươi năm xa cách. Bấy giờ tôi đã là một ông già sắp bước vào tuổi "nhĩ thuận". Mẹ tôi đã mất. Cô Quý vẫn ở ngôi nhà cũ với một đàn dâu rể con cháu đông đúc. Chồng cô ấy là học sinh, lớn lên lấy vợ và theo cách mạng, hoạt động ở nội thành Huế và hy sinh trong một trận vây lùng của giặc hồi Mậu Thân. Chính nhờ cô Quý mà tôi gặp lại được người cũ trong một buổi chiều tôi cứ ngỡ là hao hao buổi chiều nào trong ký ức.
    Bà Đào bấy giờ không còn sống trên mặt đầm nữa mà đã định cư trên bờ, tại vùng cửa Tư Hiền cách làng tôi không xa, chỉ non nửa giờ chạy xe máy. Chồng bà, người con vạn đầm hiền như ngọn rong ngày đó cũng đã mất. Bà có đến sáu người con. Hai người con mà ta đã biết, cô gái thì đi lấy chồng buôn bán bên kia đường quốc lộ, thỉnh thoảng đáp ca nô hoặc tàu nước vượt qua đầm để về thăm mẹ bên này. Còn người con trai mắt vót đuôi cá chình ngày nào giờ vẫn theo nghề trên sóng nước, có điều giờ đây anh ta là chủ của một đội thuyền máy khá lớn, chuyên đánh bắt khơi xa. Những ngày không đi biển hoặc từ biển trở về, anh ta neo thuyền ở mép cồn hoang giữa đầm nơi hồi xưa bố con anh vẫn găm thuyền mỗi khi nghỉ ngơi, rồi bơi xuồng gắn máy lên bờ, về nhà.
    Tôi còn nhớ bà Đào thua tôi hai tuổi. Tóc bà không thấy bạc mà vẫn nhưng nhức y như làn tóc tiên bà vẫn chăm sóc hồi nào ở nhà tôi. Vẫn cái nước da ngăm ngăm mằn mặn. Vẫn đôi mắt to màu nâu cháy vừa cởi mở chân thật vừa bí ẩn xa xăm. Có điều đôi mắt ấy giờ đã nhăn rạn chân chim ở đằng đuôi, dấu vết của thời gian và cuộc sống gieo neo trên mặt đầm phá thời xưa.
    Chúng tôi nhận ra nhau ngay trong phút đầu gặp lại sau bao năm dài bặt tin nhau. Có lẽ hình ảnh của hai đã in sâu trong tâm khảm của mỗi người, thời gian và sự ngăn cách không thể xóa nhòa được.
    Bà kể lại những gì tôi chưa biết sau đó.
    "…Khi chị tìm về chỗ góc đầm hoang vu, nhìn ra cái cồn nhỏ giữa phá, chị không thấy tăm hơi vạn thuyền chồng con đâu cả. Chị những tưởng hai cha con đã rời chỗ, đi làm ăn nơi khác, tại một nơi nào đó của cái dải đầm phá mênh mang chi xứ này. Một trên bờ, một dưới nước, bóng cá chớp chim… Chị cứ đi dọc đầm mà ới gọi, mà soi nhìn, nát cả chân, khản cả giọng. Ba ngày ròng rã như vậy, ba ngày dài như ba thế kỷ. Không khéo cha con vạn thuyền tan nát rồi, đã lưu lạc rồi, đã bị Hà Bá gọi về hầu hạ rồi…! Nghĩ như vậy nhưng chị vẫn chưa hết hy vọng. Chỉ mong sao cha con còn sống, có thể ngày nào đó chị sẽ tìm ra. Ngày đó, nếu như anh bắt được vợ khác, cũng là điều may mắn, cũng tốt, miễn là còn sống… Đến ngày thứ tư vẫn không thấy tăm hơi gì, chị định quay về nhà mẹ nuôi thì bỗng trong tiếng gió, chị nghe mơ hồ một tiếng chém nước phầm phâm đâu đó, rất xa… Tiếng chèo chém nước nhịp đôi một, ngọt và hơi ngâm của chồng chị thì tai chị nghe đã thuộc, không thể lẫn vào ai. Bao nhiêu năm sống trên đầm phá đã luyện cho chị một đôi mắt tinh như rắn nước, một đôi tai thính như vịt trời. Chị nhìn lướt một vòng cung ra mặt phá, định vị nơi phát ra tiếng chèo mà chỉ có chị mới nghe được, mới phân biệt được. Và chị quay lui, hướng tầm nhìn về phía hòn Thúy Vân. Kia rồi, từ bên kia mép hòn, một chấm mờ xuất hiện, to dần, to dần. Đến khi cái màu nâu như gan cá của nó hiện ra, chị đưa cả hai tay lên khoảng không mà ngoắt, ngửa cổ lên trời mà réo gọi. Chị lội ra giữa dòng nước ngập ngang ngực rồi bơi đứng. Con bé trên lưng chị khoái quá, vỗ tay a á. Vừa lúc chồng chị lướt thuyền tới, nhận ra vợ con mình. Anh quẳng chèo, nhảy xuống nước, như một con rái tơ, chỉ vài ba vòng rướn, anh đã xáp đến bên chị. Rồi một tay quặp lấy chị, một tay giật con bé ra khỏi tay chị, ấp chập vào ngực, dùng hai chân quẫy nước, bơi ngồi về thuyền. Thằng con trai đứng hai chân trên thuyền mới hơn năm tuổi nhưng đã ra vẻ ông chủ tương lai lắm; nó choãi hai chân ra, hai tay chống nạnh, mặt cứ ngất lên, nhắm tít mắt, cười hết cỡ… Mấy tuần sau đó, vợ chồng chị đánh được mẻ cá lớn, nách một rổ to đến thăm mẹ và cô em nuôi trên bờ để tạ cái ơn mà chị gọi là ơn "biển trời đầm phá"…
    Tôi ngồi lặng phắc nghe bà Đào nói, lòng bâng khuâng không bút nào tả xiết. Sau một tiếng cười dường như vô tư, bỗng bà trầm ngâm, nói như thì thầm:
    - Ngày đó, tôi yêu ông lắm mà không dám thổ lộ, ông có biết không ông?
    Tôi cố nén một tiếng thở dài, không trả lời. Mà thật, bà Đào hỏi có phải để mong câu trả lời đâu! Bà nói tiếp hồn nhiên như không:
    - Ờ mà ngày đó, tôi cũng lạ cũng liều ông nhỉ? Ai lại gái "mọi đầm" đã có hai con, lại dám đi yêu một ông tú tài tây, lại là ông anh nuôi của mình! - Bà cười khanh khách, tiếng cười nghe rất trẻ.
    Lát sau bà chép miệng:
    - Chuyện gần hết một đời người, ông nhỉ? À mãi sau này, vợ chồng tôi mới về Hoàng Long được, sau cái ngày ông đến tìm. Bây giờ thì đâu cũng là đất nước mình, tôi ở đây cũng được, cũng thuận, ông thấy có phải không?
    - Vâng, cái hồi đó bà nghĩ sao mà quay lại đầm phá vậy bà? - Bất giác tôi hỏi một câu ngớ ngẩn.
    Bà Đào im lặng một lát, thấp giọng lại, hơi xa xôi:
    - Ông có nhớ về cái lễ hội ăn mày hàng năm ở làng ông không? Đấy, chuyện này chắc vừa rồi o Quý đã kể ông nghe. Có thể nói là bắt nguồn từ cái lễ hội đặc biệt kỳ lạ mà tôi được thấy tận mắt lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời. Bây giờ nước mình đâu có còn cái lễ hội nào như thế nữa. Đấy…!
    Nói rồi, bà vào nhà trong để soạn sửa cơm đãi khách.
    Tôi đứng lên, ra thềm ngoài. Ở đây, có thể nhìn vọi ra mặt đầm mà không bị cây cối bụi bờ che khuất. Bấy giờ, ráng chiều đã nhuộm. Cả một vùng bao la vốn ngun ngút xanh bỗng bừng lên, đổi sắc màu, đỏ ối cả trên trời dưới nước…
    [/FONT]
     
  8. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Biển của muôn đời[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vô Ngã[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1
    Biển không bao giờ già.
    Nó vẫn xanh một màu vời vợi như thuở nàọ Nó ngắm nhìn bờ cát trắng, nhìn những doi đất, nhìn những núi non, đồng lúa, vườn câỵ Chỉ vì nó vấn vương chốn ấy xưa là đáy biển, xưa là của nó. Nó vẫn thường vuốt ve những miền thân thương cũ. Đôi khi nó trở nên trái tính trái nết, hằn học với bờ. Đó là những ngày bãọ Sau đấy, nó ân hận, rầm rì những lời xin lỗị Nó dịu dàng, lăn tăn tiến vào bờ cát trắng ngập nắng. Tiếng rì rầm của nó lan sâu vào đất liền, đọng lại trên những vách đá, những cánh rừng, những ngọn đồi nhấp nhô như bát úp, đọng lại cả trên những cánh võng ru con, gieo vào lòng lũ trẻ nhiều nỗi nhớ nhung mãi đến khi thành người lớn.

    2
    Mỗi khi chàng nhớ biển, chàng lại nhớ nàng, nhớ về ngôi chùa lẻ loi bên một lối mòn. Chùa trông ra biển. Biển bát ngát đổi màu theo từng ngàỵ Còn lối mòn kia đã biết bao lần kéo chân chàng và nàng chạy ùa về phía biển. Cái chùa ấy, với khoảng sân nhỏ lát gạch tàu, có những gốc sứ cùi cổ thu.. Dưới bóng râm mát ấy, một hôm, nàng nâng cuốn truyện Kiều ngang trán, lâm râm khấn và bóc được hai câu mà khi đọc xong, mắt nàng rân rấn nước.
    “Ma đưa lối, quỷ đưa đường
    Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi”
    Nghĩa là chia lìa ử Nghĩa là xa cách ử Em bắt lại câu khác xem. Chàng không tin. Nàng lại khấn rồi giở sách. Lần này cũng chẳng khá gì hơn, chẳng qua nói rõ thêm đoạn kết của cuộc chia ly
    “Tấc gang động khóa nguồn phong
    Tịt mù nào thấy bóng hồng vào ra”
    Trời ơi! Người xưa quay về động tiên tìm vợ thì động tiên bí lốị Người và tiên từ đấy cách xa nhau mãi mãi, mà cái cách xa ấy chỉ trong gang tấc mơ hồ!

    Sao thế? Chàng bực bội. Nàng buồn rười rượi. Anh không tin. Anh không tin. Mắt nàng long lanh ngấn lệ. Em cũng cố để không tin.

    Tiếng chuông chùa gõ vào không gian một nhát mạnh. Không gian như một cái chuông pha lê mỏng manh, vỡ ra hàng tỷ mảnh âm thanh bay lả tả khắp nơị Từng mảnh nhỏ bám vào mái ngói chùa âm dương cổ kính. Một đám âm thanh khác rung dài trên mặt sóng biển biếc xanh. Vài mảnh ghim vào lòng hai người đau nhóị
    “Tiếng chuông rơi vào hư không âm thanh thế nàỏ” Nàng hỏi.
    “Giọt nước mắt rơi vào hư không hình hài ra sao?” Nàng lại hỏi.
    Chàng và nàng lặng im, theo lối mòn, ra biển. Hai cái bóng trầm ngâm trườn trên bãi cát. Chàng nhìn rõ bóng nàng. Vai nàng mỏng mảnh, gầy yếu làm sao! Chàng nhìn ra biển, nhìn thấy rõ đường cong cong ở chân trời, hướng đông.
    Nàng thì thầm:“Nếu chúng ta ra biển, và đi mãi về đông, ta sẽ đến đâu?”
    “Đi mãi ư? Đi mãi, đi mãi, anh sẽ đi cả chu vi quả Đất. Đi mãi, anh lại về đây, về bên em đâỵ” Chàng đáp.
    “Thật không?”
    “Thật.” Chàng khẳng định.

    3
    Đường đời nhiều ngã. Vậy mà có một ngã vô tình chen vào giữa chàng và nàng. “Ma đưa lối, quỷ đưa đường…” Và chàng đã lạc ở trời Tâỵ Chàng cũng không hiểu vì sao mình lại làm theo câu Kiều thứ nhất một cách ngoan ngoãn thế.

    Những ước vọng phía trước lôi chàng cắm đầu chạy theọ Một cuộc sống bận rộn ngổn ngang vật chất. Chàng sống mà không kịp thở nữạ Ăn sáng trong khi lái xẹ Uống cà phê trên xẹ Điện thoại cho bạn bè mà tay kia vẫn ôm vô-lăng, lại còn tranh thủ nghe nhạc, học tiếng Anh trên xẹ Sở làm - xe - trường Đại học - xe - nhà - xe - sở làm… Chàng lăn tròn mãi trong vòng tròn khép kín đó. Cái vòng tròn ấy gói chàng lại như một vỏ ốc. Vỏ ốc đó ngày càng dày, ngày càng cứng và khô sạn như đá. Rồi chàng trở thành bác sĩ phẫu thuật, thành đạt ở xứ người và … đã quên mất nàng. Vỏ ốc của chàng ngày càng vững chãị Chàng quên nàng đúng mười bốn năm! Cho đến một ngày, vỏ ốc đó vỡ tan nát thành ngàn mảnh vụn.

    Cái tên chàng gắn với một tai nạn ô tô khủng khiếp. Xe chàng lăn xuống vực sâụ Không hiểu năng lực huyền bí nào đã kéo nổi chàng ra khỏi cõi chết. Gãy tám xương sườn, vỡ vụn xương hàm dưới, mặt mày bị cày nát, khuôn mặt chàng bị biến dạng hoàn toàn. Chàng không có khuôn mặt người nữa!
    “Còn lòng ta, có còn là người nữa không?”

    Chàng quay về ngôi nhà nghỉ hoang vắng trên biển của mình, vùng Florida. Chàng chẳng làm gì, chỉ dạo quanh nhà, vườn cây, rồi ra biển. Có khi chàng ở trên bãi cát gần hết đêm. Sau mười bốn năm xa quê, chàng bỗng nhớ nhiều về nàng. Chàng hiểu ra những “chốn đoạn trường” trong câu Kiều xưa rõ ràng hơn, sâu lắng hơn.

    Rồi chàng phải trải qua hàng chục cuộc phẫu thuật lớn nhỏ. Đó là cái giá để đổi lấy một khuôn mặt người. Một khuôn mặt lạ hoắc! Mặt của kẻ khác!

    Sau biến cố đó, chàng theo học phẫu thuật thẩm mỹ. Bốn năm sau chàng trở thành chuyên gia về hàm - mặt. Để trả ơn cho khuôn mặt mình, chàng đã sửa sang hàng ngàn khuôn mặt khác.

    Một hôm, chàng theo bạn bè rủ đến một trung tâm thiền ở Boston. Ở đó, chàng không học thêm gì cho cái tâm vô minh của mình. Duy chỉ có tiếng chuông, tiếng chuông của thuở nào đã vang lên trong lòng chàng. Tiếng chuông đẩy chàng về Việt Nam, theo đoàn phẫu thuật vá hàm ếch từ thiện cho trẻ em.

    4
    Nàng cùng biển xanh, cát trắng và nắng gió ở lại nơi xưa. Ngày ngày, nàng đến ngôi trường nhỏ dạy các em bi bô tiếng Mẹ, dạy các em yêu thương biển, yêu thương cát, yêu thương nắng gió. Nàng cười với những cụ bà, cụ ông mặt nhăn nheo như những bức tượng tạc vào thời gian. Nàng vui với lưới, với ghe thuyền, với cá. Nàng thở mùi lúa chín, trông theo những cánh chim biển chới với trong giông bãọ Nàng đỏ hoe mắt cùng với những người dân quê nghèo trông ngóng những con thuyền chưa về bến trong những ngày biển cả hằn học với đất liền. Ngày rằm, mồng một, nàng lên chùa, ngôi chùa nhỏ ngày xưa nơi nàng đã rơi rớt hai câu Kiều định mệnh. Nàng tan biến người trong tiếng chuông rồi bay vào hư không. Nàng bay trên những câu Kiều xưạ Và chỉ trong hư không tĩnh lặng ấy, nàng mới được gặp chàng. Rồi nàng khóc, những giọt nước mắt rơi vào hư không. Bấy giờ nàng mới biết những giọt nước mắt rơi vào hư không hình hài ra saọ Nó như một dung dịch hòa tan cả thể xác lẫn tâm hồn nàng, biến tất cả thành hư không.
    Năm này tiếp năm kia, chúng lũ lượt chạy qua trước mắt nàng. Có lúc chúng tạm dừng lại, ngoái nhìn nàng, dò hỏị Thời gian đứng về phía mẹ, dò hỏi nàng. Rồi chồng nàng, một anh giáo dạy chung, hiện ra như một câu trả lờị Chỉ chờ có vậy, mẹ nàng an lòng tạm biệt về lại hư vô.

    Những tưởng đời nàng mỏng đi một chút ưu phiền, nào ngờ thời gian và anh chồng kia tô thêm lên đó một lớp dày cơ cực và hàng đống gánh nặng. Nàng thui thủi nuôi hai đứa con gái nhỏ. Nàng đơn độc trong cuộc mưu sinh. Nàng lẻ loi trong mơ ước. Anh chồng kia đã hóa thành con người khác. Anh bận bịu lang thang bên những bàn rượu. Anh bỏ mình vào chai rượu, đóng nút chặt, cấm nàng xâm phạm, rồi lắc mạnh để tạo nên giông tố trong đó. Mỗi lần anh thoát khỏi nút chai ấy, anh lại lôi nàng và các con ra khỏi êm đềm, ném họ vào chán chường, vào uất ức, vào đắng cay.

    Có nhiều đêm, mấy mẹ con chạy ào ra biển. Biển đêm lấp lánh ánh đèn câu mực ngoài khơị Biển ôm cả ba mẹ con vào lòng, vỗ về, an ủi họ. .. Những giọt nước mắt lớn nhỏ không đều rơi xuống đại dương, lóng lánh trong ánh trăng non. Những đêm mưa lớn, dầm mình trong nước biển, nàng muốn lặn luôn xuống cõi vĩnh hằng. Biển từ chối. Biển xô nàng vào bờ. Rồi cả biển, cả mưa hét vào tai nàng tên hai đứa nhỏ. Chúng còn nhỏ lắm, biết không? Biển mơn man tóc nàng, má nàng, xóa sạch những dòng nước mắt. Mưa vội tạnh để họ còn dò dẫm đường về nhà. Tiếng rì rầm của biển dẫn dắt họ đi, dìu họ lên tấm phản nhỏ xíu, và theo cả vào trong giấc ngủ, ngăn họ cách xa những cơn ác mộng.

    Có một đêm, con bé lớn đau bụng, vùng bên phải. Nàng sợ con bị viêm ruột thừa. Hai mẹ con đèo luôn cả con bé nhỏ, dù nó không bệnh, trên chiếc xe Honda cà tàng vượt qua nhiều đồi, nhiều dốc đến trạm xá xã. Cô y sĩ bảo theo dõi thêm vì các dấu hiệu chưa rõ ràng lắm. Giữa đêm, con bé hết đau, nàng xin họ về nhà vì sáng hôm sau còn phải đi gác thi. Ba người đàn bà và một chiếc xe cà tàng, lầm lũi đi trong đêm, về nhà. Ghé phố chợ đìu hiu trong đêm khuya, nàng gọi cho các con hai tô cháo lòng nhỏ, còn mình thì không. Nàng không thấy đói, chỉ thấy buồn. Giờ này có lẽ chồng nàng đang nằm chò co ở nhà, say mèm như chết. Chắc anh đang mơ về những miền xa xôi, nơi đó không có buồn phiền, không có thất bại, không có đố kỵ hay ghen tuông. Một chiếc xe cải tiến thường dùng để chở củi rừng ghé vào. Cả một đoàn vua, quan, quân lính với áo mão cân đai ùa vào quán. Họ mặc đồ của ngàn xưa! À, thì ra họ là một gánh hát nhỏ vừa đi diễn về. Vua ngồi đối diện nàng. Anh ta chưa yên chỗ thì đã giật mình vì anh lính đứng kế bên sai bảo: “Ê mày, với tay lấy đưa tao cái ghế!” Vua lẹ lẹ đưa cho tên lính cái ghế, như sợ hắn phật ý. Nhìn cảnh đó, nàng bật cười. Trên sân khấu, vua có quyền uy tối thượng, nắm quyền sinh sát trong tay nhưng bước khỏi sân khấu, vua cũng chỉ là một đứa em nhỏ, bị thằng anh sai vặt.
    Các khổ đau nàng đang nếm trải rồi sẽ có một ngày bước khỏi sân khấụ Một tiếng chuông ngân vang trong lòng nàng. Nàng cảm thấy nhẹ nhõm. Hư không và tĩnh lặng về lại bên nàng, ngay nơi này đây chứ không cần tìm kiếm xa xôị Nàng cảm nhận rằng mình là một chi tiết, một phần nhỏ của cộng đồng này, của vùng đất nàỵ Yêu thương chợt ùa về như con sóng lớn. Các con nàng đang nháy mắt trêu chọc gã vua kia, khi chúng nhìn thấy lớp phấn son trôi theo những hạt mồ hôi trào lên vì tô cháo nóng hổị Nàng thấy mình yêu thương tất cả. Nàng thấy mình mạnh thêm lên.

    5
    Nàng gặp lại chàng tại Sài Gòn.
    Trong lớp nàng dạy có một cháu bé sứt môi, cha mẹ rất nghèo, không ai biết Sài Gòn là gì, không thể tự dẫn con đi để tham gia vào cuộc phẫu thuật nhân đạo, miễn phí đang tổ chức ở bệnh viện X tại thành phố, nên nàng phải đèo nó đị Gửi hai đứa con gái ở nhà bà ngoại, gần chợ Phan Thiết, hai cô trò lên chiếc xe cà tàng của nàng chạy vào Sài Gòn. Giữa mùa mưa, những cơn mưa bất chợt chụp lên đầu hai ngườị Từ khuya, họ đã đị Hai trăm cây số đường trường với người phụ nữ khá là khó khăn, nhưng với nàng thì không. Nàng đã chịu khổ nhão nhề rồi. Họ đến Sài Gòn rất sớm.

    Đó là ngày giải quyết các cas cuối cùng đã đăng ký.

    Ba ngày trước, chàng cùng các đồng nghiệp người Mỹ đã giải quyết hơn hai trăm cas sứt môi, hở hàm ếch. Công việc nhiều, mệt, nhưng chàng vuị Chàng cũng đang trông ngóng cho xong công việc, chiều đó sẽ vù về Phan Thiết, thăm lại nhà, thăm lại má giờ đã gầy yếu lắm rồị Trong danh sách các trẻ em được phẫu thuật, chàng cứ cắm cúi tìm các địa chỉ Phan Thiết quê chàng. Đã hai ngày qua chàng không thấỵ Mãi đến ngày cuối, chàng phát hiện được một. Bỗng nhiên, trái tim chàng đập rộn ràng kỳ lạ. Chàng nghĩ đến nàng. Chỉ nghĩ thôi.
    Tên đứa bé học trò nàng được xướng lên.
    Từ hàng ghế ngồi đợi ở hàng lang, nàng nhìn thấy chàng, nhưng không nhận ra, vì khuôn mặt khác hẳn. Còn dáng dấp kia, mái tóc kia, cả cách đi đứng, nàng thấy quen lắm, quen kỳ lạ.. Nàng bần thần hồi lâu. Có một tiếng chuông rạn vỡ, ngân nga trong lòng nàng. Phải chàng không? Phải chàng đấy không? Tim nàng đập mạnh. Đã lâu lắm rồi, tim nàng mới lại đập hoảng loạn như thế. Nó bồi hồi, nó hồi hộp, nó tái tệ Không, không, cả cái giọng này cũng khác nữa mà. Giọng chàng trầm ấm hơn, lôi cuốn hơn, chứ không dứt khoát, đanh gọn như người đàn ông nàỵ

    Tên đứa bé được xướng lên lần thứ hai.

    Hai cô cháu sực tỉnh “Có”, rồi đứng dậy, tách khỏi đám đông. Chàng nhìn nàng, mắt dại đi, bàn tay buông rơi tờ giấy danh sách. Có ai đó cúi xuống lượm nó, dúi vào tay chàng. Chàng cầm hững hờ, vô hồn tờ giấy trong taỵ

    Nàng đó! Nàng đứng trước chàng bằng xương bằng thịt, trong tay dắt một đứa bé sứt môi.
    “Con của em… à không, con của cô à?”
    “Không, đây là học trò tôi…”.
    Chàng nói một câu tiếng Anh với đồng sự.. Anh chàng người Mỹ kia gật đầu, tiếp nhận thằng bé, bắt đầu khám.
    Chàng hổn hển nói với nàng.
    “Em… à cô có thể ra kia nói chuyện với tôi một chút không?”
    “Dạ được.”

    Họ đi ra sân bệnh viện, bước trên con đường lát hắc ín màu đen đọng vài vũng nước mưạ Con đường rắc đầy hoa phượng đỏ.
    “Em không nhận ra anh sao? ”
    “Anh… là ai nhỉ?”
    “Nếu chúng ta đi ra biển và đi mãi về đông, ta sẽ đến đâu? - Rồi chàng lặng lẽ nói tiếp - Đi mãi, đi mãi anh sẽ đi cả chu vi quả Đất. Đi mãi, anh lại về đây, đứng cạnh em đây”.
    Cả hai cùng đứng lạị Nàng nhìn chàng trân trối. Nước mắt nàng trào ra tự lúc nào không biết. Khỏi phải tả, họ hấp tấp, bối rối, giành giật nhau để nói, để cười, để khóc.

    Hai mươi năm rồi họ mới gặp nhau. Hai mươi năm, ai trong họ cũng răm rắp làm theo câu Kiều bắt được hồi xưa, trong sân chùa. Hai mươi năm, tiếng chuông rạn vỡ không gian ấy vẫn ngân trong lòng họ tươi như mớị Nàng nghe hết về đời chàng. Chàng nghe hết về đời nàng. Hai người quên cả xung quanh. Họ quên mất là họ đã đứng nói chuyện suốt ba giờ đồng hồ bên cạnh cái ghế đá dưới chân gốc phượng vĩ. Ba giờ thật ngắn ngủị Nó ngắn như một đời người.

    6
    Chiều hôm đó, chàng tạm chia tay với đồng nghiệp. Chàng thuê một chiếc taxi và một mình về Phan Thiết.
    Chiều hôm đó, đi sau chàng chừng vài tiếng đồng hồ, nàng cũng về Phan Thiết, trên chiếc xe Honda cà tàng của mình, cùng đứa học trò nhỏ đã phẫu thuật xong.

    Núi đồi hiện ra chào đón chàng. Những rừng cao su dài, đứng ngay hàng thẳng lối như muốn bước ra đường chào chàng. Những dốc nâng chàng lên cao rồi lại hạ chàng xuống chân dốc. Quê hương nhích gần lại phía chàng. Chàng đã chuẩn bị về quê hương cả tháng rồi, vậy mà nay vẫn thấy nôn nao lạ lùng. Và kia, biển cả hiện ra với những đợt sóng trắng xóạ Chàng có thể già đị Nàng có thể già đị Nhưng biển cả thì vẫn thế, không bao giờ già.

    “Tấc gang động khóa nguồn phong”

    Cả câu Kiều này vẫn đang đúng đấy thôị Một bức tường vô hình nhưng chắc chắn đã hiện ra giữa chàng và nàng. Họ cách nhau gang tấc mà xa nhau nghìn trùng.

    Trời nắng nóng kinh khủng. Chàng bảo xe dừng, rồi bước ra ngoàị Nàng nói đúng: “Anh nhớ uống nhiều nước, nhớ mang theo nhiều nước suốị Mới về, sợ anh không quen.” Chàng uống nước ừng ực và thấy mắt mình cay. Nắng kia có tha cho nàng và thằng bé học trò đâụ Họ có được uống nước nhiều như chàng không?

    Xe lại đị Biển thoắt ẩn, thoắt hiện sau những đỉnh núị Mây đen ở đâu chợt ùn ùn kéo đến. Và mưạ Mưa đổ xuống cũng hung hãn không kém gì nắng. Mưa tuôn xối xả trên cửa kính. Cái gạt nước cuống quít xoa vội trên kính chỉ đủ thấy con đường mờ mờ trước mặt.
    “Chỉ cần em hiện diện một chút nào đó trong hồn anh, em đã thấy hạnh phúc lắm rồị Đời em khó riết, em quen rồi. Anh sung sướng, em sung sướng lây. Anh vui nghe, anh khỏe nghe, vì em!…”
    Chàng mong mưa vơi dần đi. Chàng mong mưa đừng làm ướt vai nàng nữa. Cái đỉnh núi đội mây trắng như quàng khăn nhẹ nhõm thanh thoát. Mưa nguôi dần, nguôi dần, như thể chiều theo ý chàng. Chàng thở nhẹ, ngoái nhìn kính sau xe. Con đường hiện ra rõ dần, rõ dần. Chàng lờ mờ hình dung nàng và thằng bé trên chiếc xe cà tàng vượt qua nắng gió, vượt qua mưa dông nhẹ nhõm.

    Có một tiếng chuông ngân từ nơi nào vẳng lại. Chàng ngã người ra sau ghế, lắng nghe tiếng chuông đang len vào người, hòa tan chàng ra từng mảnh nhỏ. “Bình an em nhé!” Chàng nhủ thầm rồi thiếp đi.
    [/FONT]
     
  9. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đàn ông đi chợ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lưu Quang Minh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Năm 40 tuổi, đàn ông vẫn chưa chịu lấy vợ cho mẹ vừa lòng. Mẹ sốt ruột lắm, giục suốt mà đàn ông mãi dửng dưng, chẳng chịu dẫn ai về nhà ra mắt mẹ một lần. Đàn ông làm kiến trúc sư, vẽ đẹp, đàn hay, bạn bè không ai tin đến tuổi này lại chẳng có người nâng khăn sửa túi. Đàn ông kiếm tiền rất giỏi, tậu được một căn hộ ở cao ốc gần 30 tầng. Dân kiến trúc nên đàn ông tự tay thiết kế nội thất, ai đến cũng phải xuýt xoa: nhà đẹp quá ông bạn ơi! Nhưng ngó khung cảnh vắng lặng buồn bã, lại thêm một câu: thôi nhanh nhanh lấy vợ đi ông tướng…
    Lấy vợ! Đi đâu, gặp ai đàn ông cũng đều nghe mỗi hai từ ấy.
    “Giờ sự nghiệp, tài chánh của chú tốt như thế, còn chờ gì nữa hả?”
    Chị của đàn ông khuyên. Đàn ông hờ hững, ngậm điếu thuốc lá, hít một hơi, lim dim. Thỉnh thoảng cuối tuần đàn ông lại ghé nhà bà chị chơi, ngồi luyên thuyên với ông anh rể. Ông anh rể dáng bệ vệ, giọng sang sảng động viên:
    “Có vợ sướng như tiên ấy chú ạ. Thấy tôi không, cơm ăn, áo mặc có phải lo lắng cái chi đâu…”
    Vừa nói vừa vỗ vai đàn ông bôm bốp, lại hơi liếc liếc bà chị. Bà chị đang dở tay làm bếp, nghe chồng khen khéo tủm tỉm cười.
    Đàn ông lái sang chuyện khác: chứng khoán dạo này chán quá anh nhỉ…
    Ăn bữa cơm trưa với nhà chị xong, đàn ông xin phép. Ông anh cố giữ:
    “Ở lại chơi với các cháu, tối về ai nấu cơm cho mà ăn?”
    Ông anh bà chị có cả nếp cả tẻ. Con gái lớn vừa tốt nghiệp đại học, anh chị tính cho đi tu nghiệp nước ngoài luôn, tiếng anh cứ gọi là vanh vách. Thằng con trai năm nay vào lớp 10, trường chuyên hẳn hoi. Hai đứa bám cậu lắm. Cô cháu gái còn gợi ý:
    “Bạn cháu nhiều đứa xinh lắm, cậu thích không cháu giới thiệu cho!”
    Nếu cô cháu gái nói câu này cách đây mười năm trước, nghe còn chấp nhận được. Đàn ông ngượng:
    “Về chẳng biết cậu gọi bằng em hay bằng cháu đây…”
    “Em hay cháu gì mà chẳng được. Chồng già vợ trẻ là tiên trên đời mà...”
    Kèm theo là một trận cười sang sảng của ông anh rể.
    Chẳng biết ông anh chỉ giỡn hay có pha chút mỉa mai mà trên đường về đàn ông cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Ừ thì đúng rồi, tối về ai nấu cơm cho đàn ông ăn đây.
    Vốn dĩ từ lâu, đàn ông đã chấp nhận những bữa ăn qua loa chiếu lệ. Khi hàng xóm đang quây quần bên mâm cơm đầm ấm của gia đình, có tiếng cười khanh khách của trẻ nhỏ, tiếng nhỏ to tâm sự giữa vợ và chồng, đàn ông ngồi trên ghế sa-lông, mắt đăm đăm lên màn hình ti vi. Xem ti vi mà tưởng như đang phóng tầm mắt chu du vô định vào một khoảng bao la nào đó. Lâu lâu lại khẽ nhấm nháp ổ bánh mì kẹp thịt nguội ngắt.
    Đàn ông rất ít khi mở đèn vào buổi tối. Trong nhà, chỉ ngập mỗi ánh sáng mập mờ loạng choạng của ti vi. Khói thuốc tràn khắp phòng khách. Đàn ông nghiện thuốc lá nặng. Thông thường, phụ nữ ghét mùi khói thuốc. Chính cô người yêu đàn ông quen ngày còn là sinh viên đã ra tối hậu thư:
    “Một là thuốc lá, hai là em. Anh chọn đi!”
    Nàng cứ nghĩ đàn ông sẽ chọn nàng. Vậy mà không, đàn ông quyết giữ thuốc lá ở lại.
    Có tiếng chuông điện thoại. À, bạn chí cốt.
    “Làm vài chén chứ mày, quán cũ nhé.”
    Đàn ông chơi thân với Tấn chừng cũng đã hơn hai chục năm. Dễ gì có được một tình bạn bền lâu như thế. Nhất là, khi đã bận đường vợ con, bạn bè cũng dễ chểnh mảng nhau đi. Vậy mà không, cuối tuần anh em vẫn nhậu nhẹt, cà phê cà pháo đều đặn.
    “Mày là sướng nhất rồi, như tao đây, tự dưng đeo cái cùm vào người, có khổ không cơ chứ!”
    Tấn cũng muộn đường vợ con y như đàn ông. Hình như tận xa xưa hai thằng đã có lời thề không bao giờ lấy vợ, có lẽ vì trông thấy nhiều người mất tự do quá, mình cần phải làm “cách mạng”. Ấy thế mà đến năm ba mươi lăm tuổi, đột nhiên Tấn “phản bội”, quay ngoắt đi lấy vợ, bỏ đàn ông chơi vơi lại một mình.
    “Tao thì cũng muốn đi đến cùng lắm đấy, thế nhưng mà vì hoàn cảnh…”
    Tấn gãi đầu gãi tai, làm bộ làm tịch, rồi phá lên cười hềnh hệch. Nói là nói thế, chứ từ ngày rước vợ về, Tấn như khác hẳn. Quần áo, đầu tóc gọn gàng tươm tất, chẳng còn nhận ra thằng Tấn luộm thuộm của ngày xưa nữa.
    “Trăm phần trăm đi. Mà này, chú mày cũng kiên trì thật đấy…”
    Lấy vợ đi! Chưa dứt câu đàn ông đã nói thay. Hai thằng lại phá lên cười.
    Đàn ông nhớ hồi vợ Tấn mới sinh. Trong điện thoại giọng nó lạc đi, đầy sự xúc động:
    “Con trai. Con trai. Con trai mày ơi! Trời ơi con trai!”
    Có thể tưởng tượng ra nó đang nhảy cẫng lên vì sung sướng. Đàn ông nhận được tin tức tốc đến thăm vợ con nó ngay. Đang đi đàn ông sực nhớ ra, đâu thể nào tay không được. Thế là gửi xe, vào siêu thị.
    Vào tới nơi trông y như một mê cung với đủ loại hàng hóa xếp nhau trên kệ tầng tầng lớp lớp. Khổ, công việc mua sắm vốn là của phụ nữ. Đàn ông ngơ ngơ ngác ngác, chẳng biết nên mua gì, mua gì thì tốt cho cả mẹ và con nhỉ? Lục tung đầu óc một hồi, mới nhớ hồi bà chị sinh, đàn ông phải chở mẹ đi mua sữa, rồi ít trái cây cho chị bồi bổ. Phải rồi, sữa bột cho bà mẹ.
    Lại đi khắp các dãy hàng, vẫn chẳng tìm được quầy sữa ở đâu. Cái siêu thị này rộng quá, gì cũng bán, đi đến là mỏi nhừ chân. Chả hiểu sao mấy bà phụ nữ có thể bỏ cả ngày trời vào trong này được nhỉ.
    Mò mẫm mãi cuối cùng đành phải hỏi cô nhân viên đang đứng phụ trách quầy gần đó. Cô bé xinh xắn, chỉ dẫn tận tình, đàn ông ấp a ấp úng lọng cọng cảm ơn.
    Cầm hộp sữa ra khỏi siêu thị, đàn ông tạt qua chợ mua trái cây. Chợ thì chẳng được mát mẻ như siêu thị. Đủ mùi thịt, tôm, cá, mắm, trái cây trộn lẫn nhau bên cạnh những đống rác chất lên bề bộn, nhớp nháp. Ngày nào mẹ và chị đàn ông vẫn đi, chẳng bao giờ biết chán, hay thật! Đàn ông chạy xe từ đầu chợ đến cuối chợ, quay xe lại từ cuối chợ đi đến đầu chợ, luống cuống đến là tội nghiệp. Mua trái cây nhưng là mua trái cây gì, mua một thứ hay mua tất tần tật mỗi thứ một ít. Một hồi lâu, đành bấm máy a lô cho bà chị:
    “Chị ơi đi thăm vợ thằng bạn mới đẻ thì cần mua trái cây gì?”
    Tấn biết chuyện lăn đùng ra mà ôm bụng cười. Đàn ông đỏ hết cả mặt, sau về chị hỏi mới ớ ra mình lại còn bị mua đắt nữa. Có mấy quả cam quả táo mà hết gần cả trăm nghìn. Khổ, lơ nga lơ ngơ, đàn ông đi chợ thì biết mặc cả là thế nào đâu.
    Đấy là tình hình của năm năm về trước. Đàn ông bây giờ có không muốn vẫn phải đi chợ như thường. Không thể ngày nào cũng ăn bên ngoài, rồi mãi mì gói, bánh mì kẹp thịt được. Lần đầu tiên bắc nồi lên bếp, tưởng ngon ăn, đàn ông cứ để lửa đấy đi tắm cho mát. Đang tắm dở chừng thì nghe mùi khét nồng nặc bốc lên, mới tá hỏa tam tinh vội vội vàng vàng chạy ù ra ngoài. Kết cục vẫn là mì gói “chữa cháy”. Rút kinh nghiệm về sau đàn ông chỉ dám nấu những món cực kỳ đơn giản, chẳng mơ mộng đòi làm “Yan Can Cook” nữa.
    Chị biết đàn ông vốn sẵn vụng về, thương lắm, lâu lại qua nấu cho một bữa tươm tất.
    “Chị đã bảo chú lấy vợ đi mà cứ gàn. Mẹ trông mãi. Phải để mẹ thấy cháu chứ…”
    Đàn ông hễ cứ nghe nhắc đến là mau đánh trống lảng: chứng khoán lên xuống thất thường thế nào ấy chị…. Chị thở dài ngao ngán: chẳng vợ con thì cũng kiếm một cô bồ mà đỡ đần cho mình, nhà rộng thênh thang thế này.
    Cũng có mấy lần hiếm hoi đàn ông miễn cưỡng nghe lời chị đi “xem mặt”. Đều là bạn bè, em, cháu… của chị cả. Chị phải dụ mãi: xinh lắm, đẹp người đẹp nết, không nhanh người ta đi lấy chồng thì phí! Đàn ông đang bị stress vì công việc, thôi thì đi một lần đã mất gì, gọi là giải trí cho đầu óc thư giãn. Nhưng đến lúc ngồi đối diện “người đẹp” rồi, đàn ông đổ mồ hôi hột, tim đập, chân run, mặt đỏ au, nói mãi chả nên lời. Bà chị ở nhà chờ tin vui, nào ngờ ông em về lắc đầu:
    “Chẳng được gì cả chị ơi!”
    Càng thêm tuổi tiêu chuẩn của đàn ông mỗi lúc một nâng dần lên. Đẹp là đương nhiên rồi này. Nhưng đẹp phải đi đôi với sự thông minh, duyên dáng. Nói chuyện mà nhạt như nước ốc thì còn thú vị nỗi gì. Rồi thì phải đảm đang này, nấu ăn ngon, việc nội trợ trong nhà không bao giờ phải đến lượt đàn ông làm…
    Bà chị chịu thua với ông em:
    “Lạy chú, chú già đến nơi rồi đấy.”
    Đàn ông môi phì phèo điếu thuốc.
    Nhận được cuộc điện thoại bất ngờ hẹn gặp của người xưa, đàn ông hơi bàng hoàng. Bao nhiêu năm không gặp nhau rồi. Mọi ngày ăn mặc tuềnh toàng, hôm nay ráng chải chuốt một chút. Đàn ông nhớ những ngày còn bên nhau, nàng ngồi sau xe đạp cho đàn ông đèo đi chơi, cứ như là thơ là phim vậy. Giờ ra đường thấy mấy em xinh như mộng ngồi sau SH, Dylan, đàn ông phì cười. Ít ra đàn ông còn phúc hơn các thằng chở mấy em ấy.
    Nàng vẫn đẹp, nhưng theo một kiểu khác. Nàng vừa cùng chồng về nước, thăm lại quê hương sau mười mấy năm bên xứ người. Anh chồng mắt xanh, mũi lõ, bập bẹ được vài câu tiếng Việt vợ dạy cho, lịch sự bắt tay đàn ông.
    “Em nghe bảo anh vẫn chưa vợ con gì, còn nhớ em hay sao?”
    Đàn ông ngượng chín mặt: à, thì cũng có nhớ, mà kiếm mãi chẳng tìm được ai phù hợp…
    Chẳng biết anh chồng nàng nghe có hiểu gì không mà cũng cười cười, gật gật hóng chuyện. Đàn ông thấy không thoải mái, ngồi một lúc cáo bận đi về.
    Mấy hôm sau nàng hẹn đàn ông đi uống cà-phê, chỉ có hai người. Đàn ông ngậm điếu thuốc lá, mắt phiêu du ra ngoài cửa sổ.
    “Anh vẫn không bỏ được thuốc lá à? Buồn cười thật anh ạ, chồng em cũng nghiện thuốc lá nặng, có khi còn hơn cả anh nữa. Đúng là, ghét của nào trời cho của ấy…”
    Ghét của nào trời cho của ấy… Đàn ông gắng kìm tiếng thở dài rất khẽ. Đàn ông ghét đi chợ, ghét nấu ăn, ghét phải ngồi xem ti vi một mình trong đêm. Vậy mà vẫn phải làm tất cả. Làm một mình.
    Hôm sau, đàn ông hẹn nàng và chồng qua nhà ăn bữa cơm, cho gọi là biết nhà. Thế là phải đi chợ, mua gì đó đơn giản…

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Đàn ông đi chợ, một mình như mọi khi. Chợm nghĩ, giá mà ở nhà giờ này có một người đàn bà ngồi chờ cơm.[/FONT]
     
  10. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tre nở hoa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quế Hương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Khách qua Kim Long thích ghé vườn mụ điên ni lắm!
    - Sao lại gọi người ta là điên?
    - Từ từ rồi biết. Kia rồi! Ngồi với hai đứa con! - Thằng Tí chỉ cái cổng vòm tuyệt đẹp phủ cây thằn lằn, lá lăn tăn bò loăng quăng, mê mải viết bức tình thư màu gạch chín.
    - Người rứa mà nói điên. Mi điên thì có.
    - Đợi coi!
    Thằng Tí ngoác miệng chào:
    - Mấy mẹ con ngồi hóng mát hả?
    Người đàn bà ngồi ở bậc thềm gật đầu nhoẻn miệng cười. Chị khoảng bốn mươi, đẹp thâm trầm như cái cổng gạch, khoát tay từ chối lời xin lỗi rối rít của tôi:
    - Ai giận chớ tui sướng. Dễ chi được gọi rứa Vàng hí?
    Chị choàng tay qua con chó ngồi cạnh nựng. Thật ngược đời. Chủ nhân thế, cơ ngơi thế mà chó thế. Chó ta. Lông bợt bạc. Lại già. Lại lòa. Lại ghẻ. Gãi kịch liệt. Còn bàn tay ngón thon dài quý phái đeo chiếc vòng ngọc ánh nước biếc lại xoa xoa lên chỗ ngứa của nó để làm dịu cơn khó chịu.
    Thấy ấn tượng, tôi xin phép chụp một pô ảnh. Người như hoa hải đường bên cạnh con chó già thè lưỡi.
    - Rứa không điên là chi? Giàu lại đi nuôi chó ghẻ còn bỏ bạc triệu chuộc nó bao nhiêu lần. Thấy bở ăn, tụi trộm rình bắt đòi chuộc hoài! Giữ còn hơn giữ con! - thằng Tí kết luận.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Cơn mưa chiều tưới mát thôn Kim Long. Đang tồng ngồng tắm mưa, thằng Tí bỗng đứng lại, lom khom dòm qua rào.
    - Chi rứa?
    - Tới coi xi nê ! - Thằng ranh thì thào - Cậu dòm đi.
    Tôi ghé mắt. Một cảnh trong phim cũng không có. Như thuở hồng hoang. Đôi người chân trần, thân trần che chiếc lá sen đuổi nhau trong mưa. Chó ghẻ theo bén gót. Tiếng cười mướt mưa.
    - Mụ Tú bộn tuổi rồi mà nhẹ nhõm như hạt mưa...
    - Không con nên trẻ mãi! Hễ mưa xuống là họ say.
    - Say chi?
    - Say mưa. Cậu không thấy họ tắm truồng rồi ngửa cổ nhấm mưa như nhấm rượu đó à? Đêm trăng họ lại say trăng. Rồi say hoa quỳnh, hoa súng, cả thứ hoa tầm thường như hoa thầu đâu(1) cũng trồng quanh vườn. Mùa hoa, tím ngát trời, thơm ngát xóm. Mụ Tú bày tiệc hoa có món gỏi lá thầu đâu và gỏi hoa hồng. Tóm lại, nhà nớ sống không giống ai, quanh đây gọi là đờ iên... điên.
    - Điên rứa được mấy người, mi! Thôi, dòm người ta tắm truồng không xấu hổ hả thằng ranh?
    - Ai biểu tắm lộ thiên cho người ta dòm. Tui còn chộ(2) chồng tắm cho vợ ở hồ sen, kỳ cọ như đứa con nít.
    - Tình hỉ? Họ không có con cái chi hả?
    - Cả bầy. Đứa nào cũng không biết nói - Thằng ranh cười.
    Tôi được mời bước qua cái cổng gạch khi đem tặng chủ nhân bức ảnh ngồi với con chó ghẻ. Vườn đẹp như tên - Mộng viên.
    Mộng viên do người kiến tạo mà như từ cái búng tay của tạo hóa. Chùm nhà cổ tự tại thư thái. Hồ bán nguyệt mơ màng gót sen. Hành lang nối ngày xưa - hiện tại. Ao tiên cho người tắm tiên. Chòi cô miên phạt người cắc cớ - Người cắc cớ đang cười cười. Trông anh giống người làm vườn hay anh thợ mộc chứ không giống một nghệ sĩ. "Ảnh làm hết đó. Một mình đi lùng mua nhà cổ xuống cấp chở về... Có cái chỉ lấy được vài mảnh rồi hì hục lắp ghép" - Chị khoe.
    - Còn hắn? - Tôi chỉ con chó già cứ lóng nga lóng ngóng bám theo chị. Chị đi, chúng đi, chị ngừng, chúng ngừng. Nó là bóng chị.
    - Nhặt Vàng (gold chứ không phải yellow) trước cổng từ nhỏ. Lòa rồi, thấy bằng tai. Sợ Vàng cô đơn, tôi nuôi thêm Mực - Chị chỉ con chó thứ hai đứng cạnh. Vàng thương còn hơn con đẻ, lây cả ghẻ cho nhau - Chủ nhân ngồi xuống quàng tay qua hai đứa cười. Hạnh phúc đôi khi đơn sơ thế đấy.
    Sau chó, đến khỉ chuyền cây, chim hót trên cành, cá lội dưới nước, rùa trên bờ...
    - Mộng viên là nơi mộng biến thành thực - người, cây cỏ, thú vật sống giao hòa - Tôi tấm tắc.
    - Thì tất cả chúng ta sinh ra từ cát bụi của các vì sao, là anh em họ hàng với động vật hoang dã, với hoa đồng cỏ nội(3). Con người không thể độc quyền trái đất. Nó là mái nhà của muôn loài. Nhưng thương cái gì khổ cái nấy anh à! Tui khổ vì thương - Chị cười.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Người đàn bà ấy khổ vì thương...
    Đêm ngồi trong nhà nghe tiếng gọi miu... miu trải dài suốt xóm. Thằng Tí bảo: "Mụ Tú đi tìm mèo đó. Tối tối gom thức ăn thừa cho mèo hoang. Ăn quen chúng đợi, rứa là có hẹn. Gió mưa lướt thướt cũng che dù đi vì sợ chúng đói. Ông chồng lẽo đẽo theo sau. Rứa không điên thì là chi?" - thằng Tí kết luận.
    - Người ta bảo tôi điên anh à - chị nói - Cứ lụy bởi chó mèo. Mà không chỉ chó mèo, con gì cũng thương. Chúng cũng có sinh mệnh, số phận và số phận ấy tùy thuộc con người. Tôi đi đâu chó mèo theo đó. Chúng nhận ra tôi. Thấy con nào đói khát là chịu không nổi. Có khi thương thành hại chúng nữa. Cho ăn có thịt có da, thì người ta bắt làm thịt... Có lần tôi thương một con chó mà đẩy nó vào chỗ chết. Nó ở bên kia, tôi gọi là Lu tồ - Chị chỉ tay vào vườn bên cạnh - cứ chui rào qua chơi với hai con bên này. Ba đứa giỡn với nhau thật hạnh phúc. Rứa là chủ ghét, cột lại trước cổng, bỏ đói như trêu tức tôi. Thấy tôi đi qua, nó tru thảm thiết như cầu cứu. Tôi năn nỉ cho nó làm bạn với con Mực, mấy cũng mua nhưng chị ta lắc đầu khinh khỉnh rồi bỏ bao chở đi. Chồng tôi đi tìm các chỗ bán chó nhưng không thấy...
    Con Vàng, con Mực lại biến.
    Vợ chồng chị đi quanh mấy xóm vừa gào con vừa bắn tin chuộc lại. Đã mấy lần bị mất nhưng con Vàng không bị thịt. Nó đã quá già, thịt dai nhách. Đợi chuộc tiền gấp ba. Nhưng lần này nó đang ở trong tay một gã không bình thường, Tuệ anormal.
    Tuệ anormal ở xóm bên, sống cách biệt và cô đơn trong khu vườn xô bồ, rậm rạp. Gã không vợ con, ít nối kết, chơi với đá. Với gã, đó là những khối vô ngôn dễ chịu, tạo tác tuyệt vời của thời gian và mưa nắng. Chủ nhân cũng như vườn, tóc dài thấu vai, râu ria ngập mặt. Tôi đã thấy gã một lần ở chợ. Gã đi từ đầu đến cuối chợ, mua không cần trả. Nói bao nhiêu đưa bấy nhiêu nhưng chẳng ai dám bán đắt cho gã. Tướng như anh mổ lợn, mặt ngầu như tướng cướp, bí mật và cô đơn như một ốc đảo. Người ta sợ sức mạnh và nỗi cô đơn ấy.
    Con Vàng, con Mực quả đang ở trong nhà Tuệ anormal. Nghe tiếng chủ, nó sủa cuống cuồng nhưng cổng vườn không mở. Gọi thì đá thưa. Sợ gã làm thịt con chó, ông chồng nâng giá chuộc từ một triệu lên hai triệu nhưng Tuệ anormal lắc đầu. Gã bảo chó tự động vào vườn gã. Gã chỉ thả với điều kiện nữ chủ nhân Mộng viên vào làm khách nhà gã, không đi kèm với ai.
    - Sao không phải anh mà là em? - Ông chồng nghi ngại.
    - Không làm theo hắn, con mình sẽ chết - Chị rơm rớm nước mắt.
    - Hắn không bình thường...
    - Hắn điên, em cũng điên. Hắn không mần chi em được mô! Anh cứ ngồi ngoài, có chi em gọi di động hoặc la lên.
    Anh chồng xiêu lòng gọi tôi tới cho có đồng minh. Hai người đàn ông ngồi ngoài cổng, còn chị vợ bước vào Thạch viên. Đúng là Thạch viên. Giữa ngổn ngang cây cỏ, đá đứng ngồi nhấp nhô.
    Tiếng chó rộ lên như một dàn đồng ca rồi im bặt. Thời gian dài ra đến nghẹt thở. Kim đồng hồ nhích từng chút khó nhọc. Điện thoại câm lặng. Anh chồng gọi vào thì chị vợ trả lời "An tâm". Gọi nữa thì cáu: "Ai ăn thịt mô mà sợ !". Bóng chị lay động trong cái khung chết tiệt ấy cho đến khi mặt trời đứng ngọ.
    Chị trở ra không chỉ với con Vàng, con Mực, mà cả con Lu tồ tưởng đã thành món cầy tơ. Tôi ngây người nhìn chị sóng bước thanh thản bên lũ chó hạnh phúc. Sẵn máy ảnh, tôi chộp khoảnh khắc ấy. Chộp luôn Tuệ anormal đứng dưới bụi tre nhìn theo, bởi tôi phát hiện trên đầu gã một chùm hoa tre vàng nhạt nở bung như pháo hoa. Người ta bảo đời người hiếm ai nhìn thấy hoa tre. Tre chỉ ra hoa cuối đời, mà đời tre có khi dài hơn đời người. Nở hoa xong, tre chết.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Bức ảnh chụp khoảnh khắc ấy đổi được một câu chuyện dài.
    - Năm đó tôi mười lăm tuổi - Tuệ anormal mở đầu - Nghỉ hè, cha bắt tôi chở cái lồng sắt theo ông. Cha tôi làm nghề buôn chó. Ông nói tôi có học hành mấy cũng không kiếm tiền dễ như nghề buôn chó sống bán chó chết. Chúng tôi rảo khắp hang cùng ngõ hẻm mua chó. Có chủ thì mua. Không chủ thì quật gậy sắt. Chó sống, chó chết, chó bệnh gì mua tất. Chó bệnh hay trúng bả thì người ta cho như tống đi. Chó chết da bọc xương thì vặt sạch lông, chôn xuống cát một ngày rồi bới lên. Trương phình, mập mạp tròn quay, thui rơm vàng ươm hấp dẫn. Một vốn bốn lời.
    Chiều đó, cha con tôi đi vào một xóm nghèo. Nghèo người ta mới bán chó, mới thả rong chó. Bọn chúng đều ốm giơ xương, nuôi để dọn cứt trẻ nhỏ. Đến cuối xóm, ngang qua một căn nhà trống hoác thì có tiếng chó sủa. Một người đàn bà đứng ở sân nhìn ra. "Đổi chó lấy tiền đong gạo đi!" - Cha tôi gạ. Con chó vá đánh hơi mùi chết, sủa điên dại. Người đàn bà nhìn nó rồi nhìn cha tôi, lưỡng lự. Ông bồi thêm: "Một ký hơi hai chục nghìn. Con đó khoảng dưới chục ký. Đổi lấy gạo cho con ăn".
    Ông vừa dứt lời, một con bé ào ra ôm chó chạy vụt đi. "Bán không, tôi giúp?". Người đàn bà gật. Cha ra hiệu cho tôi đuổi theo con bé. Con chó dài ngoằng, con bé thì gió thổi bay nên tôi dễ dàng bắt kịp nó. "Tau không bán!" - Nó hét rồi thả con chó "Xuỵt, cắn thằng ác ôn đi Vá!". Con chó táp ngay bắp chân tôi. "Chạy đi, Vá !" - Con bé lại ra lệnh, còn nó xông vào cản tôi, đu tấm thân bé bỏng lên người tôi và ngoạm tôi bằng tất cả sức mạnh của những chiếc răng nhọn hoắt. Tôi tát liên hồi lên mặt, nó vẫn không thả. Cha tôi xuất hiện.
    Ông huơ chiếc thòng lọng ra, lập tức siết lấy cổ con vật trung thành đáng thương không nỡ bỏ chủ. Tấm thân gầy nhom của con bé như tan thành tiếng thét đớn đau nhọn hoắt. Con chó của nó trong rọ cũng tru lên, chảy nước mắt. Cha tôi quẳng đại cho người đàn bà hai trăm bạc rồi hối tôi đạp xe đi. Con bé ghì lồng sắt lại. Đụng vào, nó cắn còn hơn chó dại. Tôi đạp, con bé vẫn không buông tay. Hết hai con đường, phải tránh chiếc xe lớn, con bé mới thả tay nhưng vẫn kiên trì đeo bám, dẫu khoảng cách cứ xa dần. Không hiểu sao vòng xe của tôi không còn hăm hở nữa. Nó chậm dần, chệnh choạng vì tôi cứ ngoái lại. Lần cuối cùng ngoái lại, trời sắp tối. Con bé chỉ còn là cái chấm nhỏ trong chiều.
    Đêm ấy tôi không ngủ được. Vết cắn sưng nhức. Hình ảnh con bé như dại như điên vì mất chó cứ luẩn quẩn trong đầu. Trời sắp tối, chạy xa nhà đến năm cây số, nó có về nhà được không ? Nó có bị xe cán?... Gần sáng, tôi rón rén xuống nơi nhốt chó. Con chó của nó vẫn còn trong rọ sắt, đúng năm giờ cha tôi sẽ hóa kiếp nó, cùng những con khác. Tôi nhấc rọ, bỏ lên xe đạp, chạy lui trở lại...
    - Rồi sao? - Tôi bị hút vào câu chuyện.
    - Đến đầu xóm, con chó mừng rỡ sủa vang. Nó nhận ra chốn thân quen. Từ trong tối, một cái bóng nhỏ vọt ra. Chính là con bé ấy. Nó không ngủ, nhào tới ôm lồng chó.
    - Thả nó ra, muốn gì tau cũng chịu - Con bé năn nỉ.
    - Tới coi mi có về thấu nhà hay không chớ không phải tới trả chó. Tiền mẹ mi lấy rồi. Con chó này thuộc về tau - Tôi vờ quay xe.
    - Tau sẽ tìm cách trả tiền lại.
    - Tau không lấy tiền.
    - Rứa mi lấy chi?
    - Lấy mi - Tôi trêu - Mi mấy tuổi?
    - Mười ba.
    - Răng ốm nhách rứa? Đói lắm hả? Ăn thịt chó không? Làm vợ tao, vài ngày tao cho ăn một đùi chó là mập căng ra.
    Con bé rùng mình, lắp bắp:
    - Mi giết chó là ác lắm.
    - Chó cũng như gà heo bò thôi. Nuôi để ăn thịt. Ác chi mà ác.
    - Chó là con vật tình nghĩa. Hai cha con mi ác như nhau.
    - Rứa thì thôi - Tôi trở đầu xe.
    Con bé lập tức nhào tới, bấu chặt cái lồng chó. Con Vá trong lồng cũng cào cấu, rên rỉ.
    - Chịu không? Tau đi đây - tôi khoái chí bỏ chân lên bàn đạp.
    - Chịu - Con bé đầu hàng.
    - Ngoéo đi - Tôi giơ ngón tay út, nó giơ theo. Tôi lồng ngón tay mình vào tay nó rồi dùng tay kia chặt rời.
    - Từ rày mi là vợ tao. Lật lọng tao bả chết chó mi.
    - Thả chó tau ra!
    - Dễ rứa hả? Muốn thả hun chồng miếng đã - tôi chìa má - Càng lúc, tôi thấy trò chơi càng thú vị.
    Nó đứng yên liếc con chó trong rọ.
    - Hun chứ không phải táp như chó đâu nghe! Mau lên kẻo tau đổi ý.
    Nó đến bên tôi, tần ngần. Tôi cúi xuống vì cao hơn nó cả cái đầu. Nó kề má tôi, nhăn mặt hít nhẹ. Còn tôi thoáng một cảm giác thật khó tả.
    Sau đó, tôi còn quay lại xóm nhiều lần nhưng nó lẩn như chạch. Một lần tôi đón được nó ở đầu xóm khi nó đi học về, và giở trò đe dọa, đòi hôn. Con bé không nói không rằng, quật cái cặp vào mặt tôi rồi bỏ chạy.
    Tôi thích con bé ấy. Quyết liệt dữ dằn nhưng lại đa cảm. Gầy gò xanh xao nhưng rất dễ thương. Không lẫn vào ai bởi một nốt ruồi đen dưới khóe mắt phải, như một giọt lệ không rơi.
    Rồi chính nó lại điều khiển tôi. Nó ra giá một con chó tôi trộm của cha trả về cho chủ (để chính mắt nó thấy) được đổi một lần gặp mặt. Tôi trả đến con thứ ba thì bị cha phát hiện, đánh một trận la lết. "Tau đánh cho mi chừa cái thói mê gái khốn kiếp. Con nhà đổi chó mà thả chó là lộn sân rồi! Người còn ăn thịt nhau huống gì thịt chó! Mấy anh chị mi không đứa nào giống mi. Có nước đói thôi con à".
    Suốt tuổi thiếu niên tôi rình nó. Mười lăm tuổi, con bé trổ giò lớn vùn vụt. Vừa học vừa bán xôi với mẹ mà vẫn học giỏi và kiêu hãnh như bà hoàng. Ánh mắt nó nhìn tôi lạnh băng. Khóe miệng mím chặt. Tôi sẵn sàng đổi một lồng chó lấy nụ cười của nó nhưng nó không hề cười với tôi. Nó cũng không sợ tôi vì nó biết sức mạnh của mình. Tôi mà giết chó nó, nó sẽ giết tôi với cách của nó. Thế là tôi cứ lẽo đẽo theo nó như một con chó. Chỉ để nhìn thấy nó.
    Cái tình thơ dại buồn cười ấy không tàn theo năm tháng mà cứ lớn dần lên. Tôi nhìn nó đẹp lên từng ngày và xa vời vợi.
    Mười tám tuổi, nó có vệ sĩ. Một thằng hơn tôi cái khoản dẫn chó đi ị và không có mùi máu chó tanh tao bám vào từng
    milimét thịt da như tôi. Cha tôi cũng có mùi đó. Đậm đặc. Tôi chặn đánh mấy bận tóe máu nhưng thằng kia không hề ngán. Con bé đi đâu, nó theo đó. Hai đứa còn phối hợp để trêu tôi. Tôi vạch kế hoạch thịt thằng đó...
    Gã đột ngột hạ giọng như tiếng thì thầm: "Ông có bao giờ thấy người hóa chó chưa?".
    "Buổi sáng ấy, cha tôi thức dậy vào bốn rưỡi sáng như mọi khi. Hai mươi năm làm nghề buôn chó, giết chó, đồng hồ sinh học của ông chính xác hơn cả đồng hồ thực. Ông bỏ chân xuống giường là đồng hồ báo thức reo. Ông dậy có nghĩa là cả nhà phải dậy và mười con chó phải chết. Đúng mười con. Tẩm ướp, pha phách, chế biến có nghề có ngón tạo thành thương hiệu quán Mười con cầy. Khách nườm nượp, xe hơi sắp hàng, thấy treo chữ Hết to tướng mới quay về.
    Nhưng sáng ấy không nghe ông quát tháo. Nhìn qua giường ông, tôi thấy ông ngồi chồm hổm, giơ chân gãi kịch liệt rồi thè lưỡi liếm người. Dạo này tôi hay lén dòm cha... Ông như bị chó nhập, mỗi ngày thêm giống chúng từ điệu bộ đến dáng vẻ. Sáng nay, ông dậy, làm động tác rùng rùng lắc lắc như rũ lông rồi đi ra vườn. Tôi đi theo ông, thấy ông ghếch chân lên cây cau đái rồi vục mặt xuống thau nước cạnh đó uống và đi ra cổng... Tôi kêu toáng lên. Cả nhà đổ ra, chứng kiến cha tôi băng qua đường ở vạch trắng hẳn hoi nhưng bằng bốn chân, lưỡi thè ra...
    Cha tôi bị nhốt trong căn phòng trên sân thượng. Dưới nhà, anh tôi, mẹ tôi vẫn bán thịt chó. Một thời gian sau ông chết... Còn tôi bỏ nhà đi...".
    Tuệ anormal im bặt. Ngừng luôn ở đó. Tôi đến, thấy cổng vườn khép chặt. Khép một câu chuyện dở dang. Một mối tình dang dở.
    Chùm hoa tre nở bung như mây đầu ngõ giờ đã tàn, khô quắp. Thân chuyển qua màu ngà, bạc phếch, sắp chết. Cũng đã đến ngày tôi rời Huế. Chủ nhân Mộng viên tiễn tôi bằng một bữa gỏi hoa hồng. Không kìm được, tôi hỏi chị:
    - Tuệ anormal hình như đi đâu. Không chào được hắn.
    - Dạ... Đi vắng. Ông ta còn định bán vườn. Con người rứa mà tốt. Ông ta đã mua lại con Lu tồ từ người chủ nhẫn tâm, giờ gửi lại tôi nuôi. Đừng coi chuyện chó là chuyện nhỏ. Nhìn cách con người đối với con vật thì biết ngay người đó thế nào - Chị kết luận.
    - Còn cái hôm chị vào vườn, ông ta nói gì? - Tôi tò mò.
    - Mắc cười lắm. Ông ta chỉ hỏi chuyện chó. "Chị có nhớ tên con chó chị nuôi hồi nhỏ không?" - "Nó tên Vá" - Tôi trả lời - "Làm ơn kể tôi nghe chuyện về nó". Tôi kể về con Vá. Ông ta ngồi nghe. Sự im lặng của ông ta buộc tôi nói rồi miên man không dừng được. Tuổi thơ ùa về. Ngày tháng cũ hiện ra. Con Vá mà tôi thương, cái thằng mà tôi ghét, chặng đời tôi trải qua... Tới khi dừng, mới biết tôi đã nói hai giờ liền. Ông ta là một người biết nghe chuyện. Chăm chú. Trầm ngâm. Không hỏi. Không ngắt. Xong chuyện, ông ta cám ơn, gửi lại tôi con Vàng, con Mực, cả con Lu tồ. Đúng là ở với đá, lần lần cũng hóa đá, thâm trầm, ít nói và bí mật như đá. Nhưng ông ta là người tử tế, tôi biết - Chị khẳng định.

    [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Từ dạo đó, tôi không về lại thôn Kim Long, cũng không gọi điện hỏi thăm thằng Tí về Tuệ anormal ( anormal: không bình thường ), về chị, về chó, về tre. Tôi sợ những kết cục. Tôi đã có một câu chuyện dở dang để họ cùng sống trong đó. Thỉnh thoảng buông viết, tôi liếc nhìn Tuệ anormal trong bức ảnh chụp hoa tre. Ánh mắt gã trầm tĩnh, thanh thản. Ánh mắt của một người yêu vô lượng, một gã đồ tể buông cây dao trong tâm.
    Tôi tin gã không còn lẽo đẽo theo chị như con chó trong phần đời còn lại của mình. Tình yêu gã như cây tre nở hoa, kết tụ đằng đẵng, bung nở rồi chết.
    Rồi hết.
    _____________________________________
    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chú thích:
    (1) Hoa thầu đâu (tiếng địa phương) còn có tên hoa xoan
    (2) Chộ (tiếng địa phương): thấy
    (3) Dẫn lời Trịnh Xuân Thuận
    [/FONT]
     
  11. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Truyện về Tình yêu!

    16 cuộc gọi nhỡ
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sưu tầm
    [/FONT]​
    [​IMG]

    7 năm qua, chưa một đêm nào anh ngủ ngon giấc. Cứ nhắm mắt lại là từng chi tiết lại hiện lên trong đầu anh, rõ mồn một. Anh như thể đã sống lại đêm đó, rất nhiều lần, nhưng anh chẳng thể làm gì để thay đổi mọi việc, anh không thể làm vợ mình sống lại. Mỗi ngày qua đi là một ngày lương tâm anh bị dằn vặt, cắn rứt. Anh mắc kẹt trong nỗi đau của quá khứ mà không sao thoát ra được.

    Người chồng mắc kẹt trong quá khứ

    Thỉnh thoảng anh lại lấy ảnh chị ra ngắm nhìn, anh ngắm chị nhiều tới nỗi bức ảnh bạc cả màu. Trong ảnh, chị vẫn cười thật tươi, thật hiền từ. Rồi anh lại tự hỏi: "Ở trên trời, chị vui hay buồn? Chị có tha thứ cho anh không?" Nhưng anh thì không thể tha thứ cho mình. Từ ngày chị mất, anh không hề thay đổi bất cứ một vật dụng gì trong nhà, bởi mỗi đồ vật đều nhắc anh nhớ tới chị, như thể chị vẫn còn đâu đây. Và như thể, những ngày hạnh phúc của anh chị dường như vẫn còn rất mới.

    Anh cứ tự ru ngủ mình trong một quá khứ mơ hồ để níu kéo hình bóng của chị. Chị là mối tình đầu của anh. Anh chị yêu nhau từ thời còn ngồi trên ghế phổ thông. Tình yêu của họ đã trải qua đủ mọi cung bậc của cảm xúc, cả ngọt ngào lẫn đắng cay. Chị đã chờ đợi anh đến khi anh tốt nghiệp Đại học, có việc làm ổn định rồi mới tiến tới hôn nhân. Dù tình yêu đã trải qua rất nhiều thử thách, những tưởng rằng đã đến lúc chín muồi, nhưng hôn nhân lại là một chuyện hoàn toàn khác.

    Những ngày đầu mới cưới, cũng như bao đôi uyên ương trẻ khác, đời sống của đôi vợ chồng trẻ rất mặn nồng, thắm thiết. Nhưng rồi, như một câu nói hài hước nhưng đầy triết lý: “Tình yêu là ánh sao trên trời, còn hôn nhân là cái hố mà khi mải ngắm sao người ta sa chân vào”, cuộc sống lứa đôi bắt đầu nảy sinh bao điều phiền nhiễu, rắc rối.

    Hồi ấy, dù mới ra trường nhưng anh đã có một công việc khá tốt với mức lương mà nhiều người phải mơ ước. Anh thừa sức để lo cho gia đình một cuộc sống sung túc, đủ đầy. Bởi vậy mà anh đề nghị chị bỏ công việc kế toán với mức lương bèo bọt để ở nhà nghỉ ngơi, có nhiều thời gian chăm sóc cho gia đình. Vợ anh vốn là người quảng giao, chị không muốn nghỉ việc, nhưng để chiều lòng chồng, chị vẫn gật đầu đồng ý.

    Bốn bức tường và công việc nội trợ ngày nào cũng như ngày nào nhanh chóng khiến chị thấy nhàm chán. Cả ngày, chị chẳng có thú vui gì khác ngoài việc ngóng chồng về. Anh trở thành mối quan tâm duy nhất của chị.

    Nhưng chị lại không phải mối quan tâm duy nhất của anh. Ngoài vợ ra, anh còn bao nhiêu chuyện khác phải lo nghĩ. Anh còn công việc, còn sự nghiệp, còn bước đường thăng tiến. Anh không thể lúc nào cũng về nhà đúng giờ và không tỏ ra mỏi mệt. Anh không thể tối nào cũng ăn những bữa cơm chị nấu. Anh còn phải giao lưu, nhậu nhẹt với bạn bè, tiếp khách với cấp trên… Nhưng vợ anh thì không thể thông cảm điều ấy. Chị yêu và lo lắng cho anh rất nhiều. Chị sợ rằng anh uống rồi say xỉn, tự đi xe sẽ rất nguy hiểm. Chị sợ rượu bia nhiều sẽ làm hại sức khỏe của anh.

    Bởi vậy mà mỗi khi anh về muộn, chị lại liên tục gọi điện hỏi han, nhắc nhở. Có nhiều lần, chị còn tới tận nơi anh đang uống rượu để chờ đưa anh về. Chị không ồn ào, chỉ nhẫn nại và kiên trì quan tâm anh, nhưng với anh, đó là cả một sự nhiễu nhương. Anh khó chịu vì sự chăm lo thái quá của vợ. Anh xấu hổ với bạn hữu khi được vợ đưa về. Những cuộc điện thoại của chị là sự quấy rối đối với anh. Anh cảm thấy mình mất tự do vì bị vợ “quản lý”. Giữa hai vợ chồng bắt đầu nảy ra những cuộc cãi cọ.

    Anh chị cãi nhau ngày càng nhiều hơn. Chị giận dỗi, còn anh vẫn nhậu nhẹt như cũ. Dù biết rằng động cơ của vợ chỉ là tình yêu với mình, nhưng anh vẫn không thể gạt khỏi đầu những nỗi bực tức, khó chịu. Chán nản cảnh chồng vợ lạnh nhạt, anh càng đi nhiều hơn, mải miết hơn với những cuộc bia rượu. Anh biết rằng mỗi khi trở về, chờ đón anh sẽ là bộ mặt nhăn nhó và những lời nhiếc móc của vợ, dù rằng sau đó chị có chăm sóc anh chu đáo thế nào đi nữa, nhưng thái độ của chị vẫn luôn khiến anh cảm thấy nặng nề.

    Anh chỉ ước gì chị niềm nở chào đón anh, nói với anh những lời yêu thương ngọt ngào, dịu dàng và trừu mến với anh như trước đây, nhưng chị đã không làm thế. Chị đã không hiểu được nỗi lòng của anh, cũng như anh đã không thấu hiểu cho chị. Khoảng cách giữa hai người cứ dần giãn ra trong khi tình yêu vẫn còn sâu đậm. Không ai cố gắng để nói với ai, họ chỉ âm thầm đau khổ.

    Nỗi ám ảnh không bao giờ nguôi

    Rồi vào cái đêm định mệnh ấy, anh ngồi nhậu với bạn như bao lần khác. Càng về khuya, cuộc rượu càng vào hồi rôm rả. Khi rượu đã ngà ngà, những người đàn ông mới nói đủ thứ trên trời, dưới bể, và chuyện gì cũng thật hấp dẫn, hay ho và có duyên cả, bởi vậy, dù đồng hồ đã điểm sang ngày hôm sau, nhưng vẫn chẳng ai muốn bỏ cuộc vui.

    Và cũng như bao lần khác, máy điện thoại của anh rung lên bần bật bởi những cuộc điện thoại của vợ. Anh biết, nếu nhấc máy lên, như bao lần khác, anh sẽ nghe ở đầu dây bên kia những lời thúc giục, ca cẩm đến sốt ruột của chị. Bởi vậy, anh nhăn nhó chuyển máy sang im lặng rồi nhanh chóng đút lại chiếc điện thoại vào chỗ quen thuộc của nó trong túi quần. Anh vẫn say sưa nhậu tiếp với bạn, quyết không để những lời phàn nàn của vợ làm cuộc vui đứt quãng. Nhưng điện thoại không ngừng rung khiến cho anh cáu kỉnh, bực tức, lầm rầm chửi rủa, anh tắt máy. Thế là yên chuyện! Cuộc nhậu lại vào hồi say sưa, vui vẻ.

    Nhưng ở đầu dây bên kia, vợ anh đang cố gọi cho anh bằng chút sức lực cuối cùng. Đứng trước ranh giới mong manh của sự sống và cái chết, trong đầu chị chỉ có hình bóng của anh. Ước nguyện của chị chỉ là được nhìn thấy anh trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời, được nói với anh một lời yêu thương cuối. Nhưng anh đã không bắt máy. Đáp lại chị chỉ có những tiếng tút dài vô cảm đến vô tận. Chị đã không gặp được anh. Chị đã đối diện với cái chết bằng sự cô đơn đến cùng cực. Chị đã ra đi vĩnh viễn.

    Còn anh, sau cuộc nhậu trở về, anh đã say xỉn tới mức lăn ra ngủ khi vừa bước chân về tới nhà. Anh không còn đủ tỉnh táo để nhận ra sự vắng mặt của vợ. Nhưng giấc ngủ của anh nhanh chóng bị đánh thức bởi những tiếng gọi thất thanh của mẹ. Mẹ anh với vẻ mặt thất thần, đôi mắt sưng húp nhòa nước báo cho anh cái tin dữ: vợ anh đã mất vì một vụ tai nạn giao thông. Cái tin vợ chết như một gáo nước buốt giá dội thẳng vào anh, làm tan hết hơi rượu. Anh sực tỉnh, hoảng hốt lao đi tìm vợ. Nhưng khi anh đến thì đã quá muộn. Chị nằm đó, hai mắt nhắm nghiền, toàn thân lạnh toát, sự sống đã rời bỏ chị, và anh tưởng rằng nó cũng đang rời bỏ anh.

    Người ta kể lại rằng chị bị một tay tài xế ngủ gật đâm phải khi một mình ra đường giữa đêm. Anh quặn lòng khi biết lúc ấy chị đang đi tìm anh. Thứ cuối cùng của chị người ta đưa cho anh là chiếc điện thoại xây xát. Họ bảo rằng khi xe cấp cứu đến, chị vẫn còn khá tỉnh táo, chị giữ chặt điện thoại trong tay và liên tục gọi, gọi đến khi chị ngất lịm và rơi vào hôn mê. Anh run rẩy cầm chiếc điện thoại của vợ, thấy trong đó có 16 cuộc gọi đến máy của anh và một tin nhắn còn chưa kịp gửi. Chị đã viết, vẻn vẹn rằng: “Em xin lỗi vì tất cả. Yêu anh”.

    Chỉ vài chữ ấy thôi nhưng là tất cả sức lực còn lại của chị, anh biết điều ấy. 16 cuộc điện thoại của vợ, anh đã lạnh lùng không nghe một cuộc nào vì nghĩ rằng đó là chuyện nhảm nhí. Giờ đây, khi đứng trước di ảnh của chị, anh đau tới mức không thể rơi nổi nước mắt. Cả cuộc đời này, có lẽ anh sẽ chẳng bao giờ tha thứ được cho bản thân.
     
    Miss Cool, 5dola, LeTruongps and 3 others like this.
  12. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Một chuyện tình
    Liên Thục Hương
    Trang Hạ dịch
    [​IMG]

    Những hiểu lầm vô tình nối tiếp, đã làm vấp những bước chân của hạnh phúc. Khi số mệnh bắt ta trả giá, tất cả đã trở nên muộn màng. Đây là một câu chuyện có thực và đầy nước mắt.
    1. Mẹ ở quê lên
    Sau khi kết hôn hai năm, chồng tôi bàn với tôi đón mẹ lên ở chung để chăm sóc bà những năm tuổi già.
    Chồng tôi mất cha từ ngày anh còn nhỏ, mẹ chồng tôi là chỗ dựa duy nhất, mẹ nuôi anh khôn lớn, cho anh học hết đại học.
    “Khổ đau cay đắng” bốn chữ ấy vận đúng vào số phận mẹ chồng tôi! Tôi nhanh chóng gật đầu, liền đi thu dọn căn phòng có ban công hướng Nam, phòng có thể đón nắng, trồng chút hoa cỏ gì đó.
    Chồng tôi đứng giữa căn phòng ngập tràn nắng, không nói câu nào, chỉ đột ngột bế bổng tôi lên quay khắp phòng, khi tôi giãy giụa cào cấu đòi xuống, anh nói: “Đi đón mẹ chúng ta thôi!”.
    [​IMG]
    Vĩnh cửu
    Chồng tôi vóc dáng cao lớn, tôi thích nép đầu vào ngực anh, cảm giác anh có thể tóm lấy cả thân hình mảnh mai bé nhỏ của tôi, nhét vào trong túi áo. Mỗi khi chúng tôi cãi cọ và không chịu làm lành, anh thường nhấc bổng tôi lên đầu quay tròn, cho đến lúc tôi sợ hãi van xin anh thả xuống. Nỗi sợ hãi hạnh phúc ấy làm tôi mê mẩn.
    Những thói quen ở nhà quê của mẹ chồng tôi mãi không thể thay đổi. Tôi thích mua hoa tươi bày trong phòng khách, mẹ chồng tôi sau này không nhịn được bảo: “Bọn trẻ các con lãng phí quá, mua hoa làm chi? Nào có thể ăn được như cơm!”.
    Tôi cười: “Mẹ, trong nhà có hoa nở rộ, tâm trạng mọi người cũng vui vẻ”.
    Mẹ chồng tôi cúi đầu cằn nhằn, chồng tôi vội cười: “Mẹ, người thành phố quen thế rồi, dần dần mẹ sẽ quen thôi!”.
    Mẹ chồng tôi không nói gì nữa, nhưng mỗi lần thấy tôi mang hoa về, bà vẫn không nhịn được hỏi mua hoa mất bao nhiêu tiền, tôi nói, thì bà chép miệng. Có lần thấy tôi xách túi lớn túi nhỏ đi mua sắm về, bà hỏi cái này bao nhiêu tiền cái kia giá bao nhiêu, tôi cứ kể thật, thì bà chép miệng càng to hơn. Chồng tôi véo mũi tôi nói: “Đồ ngốc, em đừng nói cho mẹ biết giá thật có phải đỡ hơn không?”.
    Cuộc sống hạnh phúc đã lẳng lặng trôi những âm điệu không êm đềm.
    Mẹ chồng tôi ghét nhất là thấy chồng tôi dậy nấu bữa sáng, với bà, làm đàn ông mà phải vào bếp nấu nướng cho vợ, làm gì có chuyện ngược đời đó?
    Trên bàn ăn sáng, mặt mẹ chồng tôi thường u ám, tôi giả vờ không nhận thấy. Mẹ chồng tôi bèn khua bát đũa canh cách, đấy là cách phản đối không lời của bà.
    Tôi là giáo viên dạy múa ở Cung thiếu niên, nhảy múa đã đủ mệt rồi, mỗi sáng ủ mình trong ổ chăn ấm áp, tôi không muốn phải hy sinh nốt sự hưởng thụ duy nhất ấy, vì thế tôi vờ câm điếc trước sự phản ứng của mẹ chồng. Còn mẹ chồng tôi thỉnh thoảng có giúp tôi làm việc nhà, thì chỉ làm tôi càng bận rộn thêm.
    Ví như, bà gom tất thảy mọi túi nilông đựng đồ và đựng rác trong nhà lại, bảo chờ gom đủ rồi bán đồng nát một thể, vì thế trong nhà chỗ nào cũng toàn túi nilông dùng rồi; Bà tiếc rẻ không dùng nước rửa bát, để khỏi làm bà mất mặt, tôi đành phải lén lút rửa lại lần nữa. Có một buổi tối, mẹ chồng tôi bắt gặp tôi đang lén rửa lại bát, bà đóng cửa phòng đánh “sầm” một cái, nằm bên trong khóc ầm ĩ.
    Chồng tôi khó xử, sau việc này, suốt đêm anh không nói với tôi câu nào, tôi nũng nịu, làm lành, anh cũng mặc kệ. Tôi giận dữ, hỏi anh: “Thế em rốt cục đã làm sai cái gì nào?”.
    Anh trừng mắt nhìn tôi nói: “Em không chịu nhường mẹ đi một chút, ăn bát chưa sạch thì cũng có chết đâu?”.
    Sau đó, cả một thời gian dài, mẹ chồng tôi không nói chuyện với tôi, không khí trong gia đình gượng gạo dần. Thời gian đó, chồng tôi cũng sống rất mệt mỏi, anh không biết nên làm vui lòng ai trước.
    Mẹ chồng tôi không cho con trai nấu bữa sáng nữa, xung phong đảm nhận “trọng trách” này. Mẹ chồng tôi ngắm con trai ăn sáng vui vẻ, lại nhìn sang tôi, ánh mắt bà trách móc tôi làm không trọn trách nhiệm của người vợ. Để tránh bị khó xử, tôi đành ăn tạm gói sữa trên đường đi làm.
    Lúc đi ngủ, chồng tôi hơi buồn trách, hỏi tôi: “Rodi, có phải em chê mẹ anh nấu cơm không sạch nên em không ăn ở nhà?”. Lật mình, anh quay lưng về phía tôi lạnh lùng, mặc kệ tôi nước mắt tủi thân lăn tràn trề.
    Cuối cùng, chồng tôi thở dài: “Rodi, thôi em cứ coi như là vì anh, em ở nhà ăn sáng được không?”. Thế là tôi đành quay về ngồi ở bàn ăn ngần ngại mỗi sáng.
    Sáng đó, tôi húp bát cháo do mẹ chồng nấu, đột nhiên lợm giọng, mọi thứ trong dạ dầy tống tháo hết ra ngoài, tôi cuống cuồng bịt chặt miệng không cho nó trào ra, nhưng không được, tôi vứt bát đũa (chú thích: người Trung Quốc ăn cháo bằng đũa, không dùng thìa như ở Việt Nam) nhảy bổ vào toa-lét, nôn ọe hết.
    Khi tôi hổn hển thở được, bình tâm lại, thấy mẹ chồng tôi đang khóc lóc than thân trách phận bằng tiếng pha rặt giọng nhà quê, chồng tôi đứng ở cửa toa-lét giận dữ nhìn tôi, tôi há miệng không nói được nên lời, tôi đâu có cố ý.
    Lần đầu tiên tôi và chồng tôi bắt đầu cãi nhau kịch liệt, ban đầu mẹ chồng tôi ngồi nhìn chúng tôi, rồi bà đứng dậy, thất thểu đi ra khỏi cửa. Chồng tôi hằn học nhìn tôi một cái rồi xuống nhà đuổi theo mẹ.
    2. Những tháng ngày tăm tối
    Suốt ba ngày, chồng tôi không về nhà, cũng không gọi điện. Tôi đang giận, tôi nghĩ từ ngày mẹ chồng tôi lên đây, tôi đã cực nhục đủ rồi, còn muốn gì tôi nữa? Nhưng kỳ lạ làm sao, tôi vẫn cứ buồn nôn, ăn gì cũng chẳng thấy ngon, thêm vào đó việc nhà rối ren, tâm trạng tôi cực kỳ tồi tệ. Sau đó, một đồng nghiệp bảo tôi: “Rodi, trông sắc mặt cậu xấu lắm, đi khám bác sĩ xem nào”.
    Kết quả khám của bác sĩ là tôi đã có thai. Tôi hiểu ra sáng hôm đó vì sao tôi nôn ọe, trong cảm giác hạnh phúc có xen lẫn chút oán trách, chồng tôi và cả bà mẹ chồng đã từng sinh nở, vì sao họ không hề nghĩ đến lý do ấy? Ở cổng bệnh viện, tôi gặp chồng tôi.
    Mới chỉ ba hôm không gặp mặt, chồng tôi đã trở nên hốc hác. Tôi đáng lẽ định quay người đi thẳng, nhưng trông anh rất đáng thương, tôi không nén được gọi anh lại. Chồng tôi nghe tiếng thì nhìn thấy tôi, nhưng làm như không quen biết, trong mắt anh chỉ còn sự căm thù, ánh nhìn ấy làm tôi bị thương.
    Tôi tự nói với mình, không được nhìn anh ấy, không được nhìn anh ấy, tôi đưa tay vẫy một chiếc taxi chạy qua. Lúc đó tôi mong muốn làm sao được kêu lên với chồng tôi một tiếng: “Anh ơi, em sắp sinh cho anh một đứa con rồi!” và được anh bế bổng lên, quay tròn hạnh phúc, những cái tôi mơ ước không xảy ra, trên chiếc taxi, nước mắt tôi chầm chậm rơi xuống.
    Vì sao một vụ cãi nhau đã làm tình yêu trở nên tồi tệ như thế này? Sau khi về nhà, tôi nằm trên giường nhớ chồng, nhớ đến sự căm thù trong mắt anh. Tôi ôm một góc chăn nằm khóc. Đêm đó, trong nhà có tiếng mở ngăn kéo. Bật đèn lên, tôi nhìn thấy gương mặt đầy nước mắt của chồng tôi. Anh ấy đang lấy tiền.
    Tôi lạnh lùng nhìn anh, không nói gì. Anh coi như không có tôi, cầm tiền và sổ tiết kiệm rồi đi. Có lẽ anh đã quyết định rời bỏ tôi thật sự. Thật là một người đàn ông khôn ngoan, tình và tiền rạch ròi thế. Tôi cười nhạt vài cái, nước mắt lại “ồn ào” lăn xuống.
    Ngày hôm sau, tôi không đi làm. Tôi dọn lại toàn bộ suy nghĩ của mình, đi tìm chồng nói chuyện một lần cho rõ. Đến công ty của chồng, thư ký hơi lạ lùng nhìn tôi, bảo: “Mẹ của tổng giám đốc Trần bị tai nạn giao thông, đang trong viện”.
    Tôi há hốc mồm trợn mắt, chạy bổ tới bệnh viện, khi tìm được chồng tôi, mẹ chồng tôi đã mất rồi. Chồng tôi không nhìn tôi, mặt anh rắn lại.
    Tôi nhìn gương mặt gầy gò trắng bệch xanh tái lại của mẹ chồng, nước mắt tôi tuôn xuống ào ạt, trời ơi! Sao lại ra thế này? Cho đến tận lúc chôn cất bà, chồng tôi cũng không hề nói với tôi một câu, thậm chí mỗi ánh mắt đều mang một nỗi thù hận sâu sắc.
    Về vụ tai nạn xe, tôi phải hỏi người khác mới biết đại khái là, mẹ chồng tôi bỏ nhà đi mơ hồ ra phía bến xe, bà muốn về quê, chồng tôi càng theo bà càng đi nhanh, khi qua đường, một chiếc xe buýt đã đâm thẳng vào bà…
    Cuối cùng tôi đã hiểu sự căm ghét của chồng, nếu buổi sáng hôm đó tôi không nôn, nếu chúng tôi không cãi nhau, nếu như… trong tim anh ấy, tôi chính là người gián tiếp gây ra cái chết của mẹ anh.
    Chồng tôi im lặng dọn đồ vào ở phòng mẹ, mỗi tối anh về nhà nồng nặc hơi rượu. Và tôi bị lòng tự trọng đáng thương lẫn sự ân hận dồn nén tới không thể thở được, muốn giải thích cho anh, muốn nói với anh rằng chúng ta sắp có con rồi, nhưng nhìn vào đôi mắt lạnh lùng của anh, tôi lại nuốt hết đi những lời định nói. Thà anh đánh tôi một trận hoặc chửi bới tôi một trận còn hơn, cho dù tất cả đã xảy ra không phải do tôi cố ý.
    Ngày lại ngày cứ thế trôi đi trùng lặp, chồng tôi về nhà ngày càng muộn. Tôi cố chấp, coi anh còn hơn kẻ lạ. Tôi là cái thòng lọng thắt trong trái tim chồng tôi.
    Một lần, tôi đi qua một tiệm ăn châu Âu, xuyên qua lớp cửa kính trong suốt kéo dài từ trần nhà xuống sát mặt đất, tôi nhìn thấy chồng tôi ngồi đối diện một cô gái trẻ, anh nhè nhẹ vuốt tóc cô gái, tôi đã hiểu ra tất cả.
    Ban đầu tôi sững sờ, rồi tôi bước vào tiệm ăn, đứng trước mặt chồng, nhìn anh trân trối, mắt khô cạn. Tôi chẳng còn muốn nói gì, cũng không thể nào nói gì. Cô gái nhìn tôi, nhìn chồng tôi, đứng lên định bỏ đi, chồng tôi đưa tay ấn cô ngồi xuống, và, anh cũng trân trối nhìn tôi, không hề thua kém.
    Tôi chỉ còn nghe thấy tiếng trái tim tôi đang đập thoi thóp, đập thoi thóp từng nhịp một từng nhịp một cho tới tận ranh giới tái xanh của cái chết. Kẻ thua cuộc là tôi, nếu tôi cứ đứng thế này mãi, tôi và đứa bé trong bụng tôi sẽ cùng ngã.
    Đêm đó, chồng tôi không về nhà, anh dùng cách đó để nói cho tôi biết: Cùng với cái chết của mẹ chồng tôi, tình yêu của chúng tôi cũng đã chết rồi.
    Chồng tôi không quay về nữa. Có hôm, tôi đi làm về, thấy tủ quần áo bị động vào, chồng tôi quay về lấy vài thứ đồ của anh. Tôi không muốn gọi điện cho chồng tôi, ngay cả ý nghĩ ban đầu là giải thích mọi chuyện cho anh, giờ cũng đã biến mất hoàn toàn.
    Tôi một mình sống, một mình đi bệnh viện khám thai, mỗi lần thấy những người chồng thận trọng dìu vợ đi viện khám thai, trái tim tôi như vỡ tan ra. Đồng nghiệp lấp lửng xui tôi nạo thai đi cho xong, nhưng tôi kiên quyết nói không, tôi điên cuồng muốn được đẻ đứa con này ra, coi như một cách bù đắp cho cái chết của mẹ chồng tôi.
    Khi tôi đi làm về, chồng tôi đang ngồi trong phòng khách, khói thuốc mù mịt khắp phòng, trên bàn nước đặt một tờ giấy. Không cần liếc qua, tôi đã biết tờ giấy viết gì.
    Trong hai tháng chồng tôi không về nhà, tôi đã dần dần học được cách bình tĩnh. Tôi nhìn anh, gỡ mũ xuống, bảo: “Anh chờ chút, tôi ký!”. Chồng tôi cứ nhìn tôi, ánh mắt anh bối rối, như tôi.
    Tôi vừa cởi cúc áo khoác vừa tự dặn mình: “Không khóc, không khóc…”. Mắt rất đau, nhưng tôi không cho phép nước mắt được lăn ra. Treo xong áo khoác, cái nhìn của chồng tôi gắn chặt vào cái bụng đã nổi lên của tôi. Tôi mỉm cười, đi tới, kéo tờ giấy lại, không hề nhìn, ký lên đó cái tên tôi, đẩy lại phía anh.
    “Rodi, em có thai à?”.
    Từ sau khi mẹ chồng gặp tai nạn, đây là câu đầu tiên anh nói với tôi. Tôi không cầm được nước mắt nữa, lệ “tới tấp” tràn xuống má.
    Tôi đáp: “Vâng, nhưng không sao đâu, anh có thể đi được rồi!”. Chồng tôi không đi, trong bóng tối, chúng tôi nhìn nhau. Chồng tôi nằm ôm lấy người tôi, nước mắt thấm ướt chăn. Nhưng trong tim tôi, rất nhiều thứ đã mất về nơi quá xa xôi, xa tới mức dù tôi có chạy đuổi theo cũng không thể với lại.
    Không biết chồng tôi đã nói “Anh xin lỗi em!” với tôi bao nhiêu lần rồi, tôi cũng đã từng tưởng rằng tôi sẽ tha thứ, nhưng tôi không tài nào làm được, trong tiệm ăn châu Âu hôm đó, trước mặt người con gái trẻ ấy, ánh mắt lạnh lẽo chồng tôi nhìn tôi, cả đời này, tôi không thể nào quên nổi. Chúng tôi đã cùng rạch lên tim nhau những vết đớn đau. Phía tôi, là vô ý; còn anh, là cố tình.
    3. Hận cũ hóa giải, nhưng quá khứ không bao giờ trở lại!
    Trừ những lúc ấm áp khi nghĩ đến đứa bé trong bụng, còn với chồng, trái tim tôi lạnh giá như băng, không ăn bất cứ thứ gì anh mua, không cần ở anh bất cứ món quà gì, không nói chuyện với anh.
    Bắt đầu từ lúc ký vào tờ giấy kia, hôn nhân cũng như tình yêu đã biến mất khỏi đời tôi. Có hôm chồng tôi thử quay về phòng ngủ, anh vào, tôi ra phòng khách, anh chỉ còn cách quay về ngủ ở phòng mẹ.
    Trong đêm thâu, đôi khi từ phòng anh vẳng tới tiếng rên khe khẽ, tôi im lặng mặc kệ. Đây là trò anh thường bày ra, ngày xưa chỉ cần tôi giận anh, anh sẽ giả vờ đau đầu, tôi sẽ lo lắng chạy đến, ngoan ngoãn đầu hàng chồng, quan tâm xem anh bị làm sao, anh sẽ vươn một tay ra tóm lấy tôi cười ha hả. Anh đã quên rồi, tôi lo lắng là bởi tôi yêu anh, còn bây giờ, giữa chúng tôi còn lại gì đâu?
    Chồng tôi dùng những tiếng rên ngắt quãng để đón ngày đứa bé chào đời. Dường như ngày nào anh cũng mua gì đó cho con, các đồ dùng của trẻ sơ sinh, đồ dùng của trẻ em, ngay cả sách thiếu nhi, từng bọc từng bọc, sắp chất đầy gian phòng anh.
    Tôi biết chồng tôi dùng cách đó để cảm động tôi, nhưng tôi không còn cảm thấy gì nữa. Anh đành giam mình trong phòng, gõ máy tính “lạch cà lạch cạch”, có lẽ anh đang yêu đương trên mạng, nhưng việc đó đối với tôi không có ý nghĩa gì.
    Đêm cuối mùa xuân, cơn đau bụng dữ dội khiến tôi gào lên, chồng tôi nhảy bổ sang, như thể anh chưa hề thay quần áo đi ngủ, vì đang chờ đón giây phút này tới. Anh cõng tôi chạy xuống nhà, bắt xe, suốt dọc đường nắm chặt bàn tay tôi, liên tục lau mồ hôi trên trán tôi.
    Đến bệnh viện, anh lại cõng tôi chạy vào phòng phụ sản. Nằm trên cái lưng gầy guộc và ấm áp, một ý nghĩ hiện ra trong đầu tôi: “Cả cuộc đời này, còn ai có thể yêu tôi như anh nữa không?”.
    Anh đẩy cửa phòng phụ sản, nhìn theo tôi đi vào, tôi cố nén cơn đau nhìn lại anh một cái nhìn ấm áp. Từ phòng đẻ ra, chồng tôi nhìn tôi và đứa bé, anh cười mắt rưng rưng. Tôi vuốt bàn tay anh. Chồng tôi nhìn tôi, mỉm cười, rồi, anh chậm rãi và mệt mỏi ngã dụi xuống. Tôi gào tên anh… Chồng tôi mỉm cười, nhưng không thể mở được đôi mắt mệt mỏi…
    Tôi đã tưởng có những giọt nước mắt tôi không thể nào chảy vì chồng nữa, nhưng sự thực lại khác, chưa bao giờ có nỗi đau đớn mạnh mẽ thế xé nát thân thể tôi.
    Bác sĩ nói, phát hiện chồng tôi ung thư gan đã vào giai đoạn cuối cùng, anh gắng gượng cho đến giờ kể cũng đã là kỳ tích. Tôi hỏi bác sĩ phát hiện ung thư khi nào? Bác sĩ nói năm tháng trước, rồi an ủi tôi: “Phải chuẩn bị hậu sự đi!”.
    Tôi mặc kệ sự can ngăn của y tá, về nhà, vào phòng chồng tôi bật máy tính, tim tôi phút chốc bị bóp nghẹt. Bệnh ung thư gan của chồng tôi đã phát hiện từ năm tháng trước, những tiếng rên rỉ của anh là thật, vậy mà tôi nghĩ đó là…
    Có hai trăm nghìn chữ trong máy tính, là lời dặn dò chồng tôi gửi lại cho con chúng tôi: “Con ạ, vì con, bố đã kiên trì, phải chờ được đến lúc nhìn thấy con bố mới được gục ngã, đó là khao khát lớn nhất của bố… Bố biết, cả cuộc đời con sẽ có rất nhiều niềm vui hoặc gặp nhiều thử thách, giá như bố được đi cùng con suốt cả chặng đường con trưởng thành, thì vui sướng biết bao, nhưng bố không thể.
    Bố viết lại trên máy tính, viết những vấn đề mà con có thể sẽ gặp phải trong đời, bao giờ con gặp phải những khó khăn đó, con có thể tham khảo ý kiến của bố…
    Con ơi, viết xong hơn 200 nghìn chữ, bố cảm thấy như đã đi cùng con cả một đoạn đời con lớn. Thật đấy, bố rất mừng. Con phải yêu mẹ con, mẹ rất khổ, mẹ là người yêu con nhất, cũng là người bố yêu nhất…”.
    Từ khi đứa trẻ đi học mẫu giáo, rồi học Tiểu học, Trung học, lên Đại học, cho đến lúc tìm việc, yêu đương, anh đều viết hết.
    Chồng tôi cũng viết cho tôi một bức thư:
    “Em yêu dấu, cưới em làm vợ là hạnh phúc lớn nhất đời anh, tha thứ cho những gì anh làm tổn thương em, tha thứ cho việc anh giấu em bệnh tình, vì anh muốn em giữ gìn sức khoẻ và tâm lý chờ đón đứa con ra đời…
    Em yêu dấu, nếu em đang khóc, tức là em đã tha thứ cho anh rồi, anh sẽ cười, cảm ơn em đã luôn yêu anh… Những quà tặng này, anh sợ anh không có cơ hội tự tay tặng cho con nữa, em giúp anh mỗi năm tặng con vài món quà, trên các gói quà anh đều đã ghi sẵn ngày sẽ tặng quà rồi…”.
    Quay lại bệnh viện, chồng tôi vẫn đang hôn mê. Tôi bế con tới, đặt nó bên anh, tôi nói: “Anh mở mắt cười một cái nào, em muốn con mình ghi nhớ khoảnh khắc ấm áp nằm trong lòng bố…”.
    Chồng tôi khó khăn mở mắt, khẽ mỉm cười. Thằng bé vẫn nằm trong lòng bố, ngọ nguậy đôi tay hồng hào bé tí xíu. Tôi ấn nút chụp máy ảnh “lách tách”, để mặc nước mắt chảy dọc má…
     
    Miss Cool, 5dola, LeTruongps and 3 others like this.
  13. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Chuyện tình hai người điên
    Sưu tầm
    [​IMG]
    Có 1 câu chuyện về tình yêu mà nhân vật chính là 2 người điên. Người con trai chỉ biết nói những lời điên rồ, còn người con gái thì chỉ biết dùng đôi mắt vô hồn nhìn người con trai, và cười, một nụ cười của một người điên.

    Hai người trước đây không quen biết, một người ở phương Nam, một người ở phương Bắc. Gia đình của 2 người đều nguyền rủa 2 người là điên, và đuổi 2 người 2 khỏi nhà, làm 2 người phải lưu lạc bốn phương. Người con trai từ phương Nam đi về phương Bắc, còn người con gái đi từ phương Bắc về phương Nam. Người con trai trước đây không điên, nhưng trong lúc đang ở công trường thi công bị gạch rơi trúng đầu, nên sinh ra điên. Còn người con gái trước đây cũng không hề điên, trước đây thi đại học người con gái đỗ thủ khoa, nhưng rồi tên của cô trên bảng vàng bị một người có tiền tráo đổi. Và từ đó người con gái không nói lời nào nữa, và cũng không đếm xỉa đến bố mẹ, về sau sinh ra bị điên.

    Không biết đã lưu lạc bao lâu mà quần áo của người con trai bẩn thỉu đến mức không thể chấp nhận đc, giày thì rách đến nỗi không thể rách hơn nữa, để lộ ra cả những ngón chân bầm tím. Còn chiếc áo màu hồng mà người con gái mặc cũng không thể gọi là màu hồng được nữa, phải gọi là màu xám thì đúng hơn.Trên mái tóc rối tung còn có những sợi cỏ khô. Nhưng mặt người con gái vẫn trắng, và trắng một cách thần kỳ, trên tay cầm 1 chai nước khoáng, vừa nhìn người qua đường vừa đờ đẫn cười. Hai người gặp nhau trong một buổi hoàng hôn, khi mà cả 2 người đều phát hiện trong thùng rác có 1 cái bánh bao đã mốc meo.

    Cả 2 cùng nhảy vào lấy miếng bánh và va đầu vào nhau. Người con trai trợn mắt nhìn người con gái một cách thù hằn, còn người con gái thì nhìn người con trai đờ đẫn cười. Cuối cùng thì kẻ thắng lợi là người con trai, người con trai đã cướp được miếng bánh, mở to đôi môi đen sì gặm miếng bánh 1 miếng, còn người con gái vẫn đứng yên, chỉ đờ đẫn nhìn người con trai và cười. Người con trai nhìn người con gái, và trong mắt người con trai không có chút gì gọi là động lòng. Người con gái vẫn đờ đẫn nhìn người con trai, từ trong miệng ko ngớt phát ra những tiếng thèm thuồng miếng bánh. Người con trai dừng việc ăn lại, bắt đầu nhìn người con gái, đờ đẫn nhìn, 2 người cứ nhìn nhau như vậy, người con trai ko biểu lộ chút tình cảm nào, người con gái điên điên cười. Người con trai bất ngờ đưa miếng bánh đang ăn dở cho người con gái, người con gái vội vàng cầm lấy và ăn ngấu nghiến.

    Người con trai bỏ đi, không quay đầu lại nhìn. Lúc người con trai về đến căn nhà bỏ hoàng, nơi người con trai đang tá túc, quay đầu lại thì nhìn thấy người con gái. Thì ra người con gái đi theo sau người con trai đến tận nơi này, người con gái cứ đờ đẫn nhìn người con trai cười, cả 2 không nói câu nào, người con gái từ đó ở bên cạnh người con trai. Tối, lúc ngủ, người con trai cảm thấy thật ấm áp, một cảm giác mà trước đây chưa hề có, người con gái nằm bên cạnh người con trai, ngủ một giấc thật ngon lành, nhìn người con gái lúc ngủ không hề giống 1 người điên.

    Hai người cứ như vậy sống cùng nhau. Ban ngày cả 2 người đi kiếm đồ ăn ở ngoài đường, ban đêm thì về chỗ ngủ. Cuộc sống cứ ngày ngày trôi qua như thế. Một ngày không hiểu người con trai kiếm đâu ra một chiếc nhẫn đã biến thành màu xanh, đưa cho người con gái đeo. Người con gái nhìn người con trai đờ đẫn cười, đêm đó người con gái cười nhiều đến nỗi phá tan bầu không khí yên tĩnh. Rồi cười ra nước mắt, người con gái bắt đầu khóc, ôm người con trai và khóc. Người con trai đứng yên, trên mặt vẫn ko biểu lộ một chút tình cảm nào.

    Về sau người con gái bị bệnh, từ trước đến nay người con gái chưa bao giờ bị, nhưng bây giờ đã bị bệnh, và bị bệnh nặng. Ban ngày người con gái ko thể cùng người con trai đi kiếm đồ ăn, không thể nhìn người con trai và cười. Người con trai một mình đi kiếm đồ. Buổi trưa bất chợt người con trai cầm về 1 chai nước khoáng và 1 cái bánh bao còn mới nguyên. Trên mặt người con trai có mấy vết xước, còn ngón tay thì thâm tím, và trên môi có mấy vệt máu. Thì ra trong lúc cướp nước khoáng và bánh bao về cho người con gái, người con trai bị chủ hàng đánh.

    Người con gái nhắm mắt, không nhìn người con trai cười như trước đây. Người con trai đưa bánh cho người con gái, nhưng người con gái không ăn. Người con gái sắp chết rồi, toàn thân nóng rực, bắt đầu hôn mê. Nét mặt người con trai lần đầu tiên biểu lộ tình cảm, một vẻ mặt hoang mang. Người con trai chạy ra đường, nhìn thấy một người mặc áo xanh cảnh sát liền khóc, cũng là lần đầu tiên khóc, không ngớt miệng nói “cứu người”. Người mặc quân phục xanh liền gạt người con trai ra, và chửi “Cút đi! Mình cũng thật là đen đủi, ra đường không để ý”. Người con trai nằm cúi xuống đất, ngửa mặt lên cầu xin. Người mặc quân phục xanh đá người con trai mấy cái, và nhỏ nước bọt vào người con trai rồi bỏ đi. Người con trai mãi hồi lâu mới lồm cồm bò dậy, trên mặt nước mắt đã chảy thành hàng.

    Người con trai quay về bế người con gái ra ngoài đường. Người trên đường qua lại rất đông, nhưng không một ai chú ý đến 2 người. Người nào nhìn thì cũng nhìn qua rồi nhanh chóng bước qua. Người con trai đặt người con gái lên đường, không còn mong chờ gì người qua đường nữa. Người con gái bây giờ đã thở yếu lắm rồi. Người con trai liền nhặt một miếng kính vỡ ở trên đường.

    Miếng kính có 1 đầu rất nhọn và sắc. Người con trai dùng miếng kính cắt vào tay người con gái, máu từ tay người con gái bắn cả vào mặt người con trai. Người con trai cười “ha ha, tôi giết người rồi, các người nhìn ta giết người đây ...” Xe cứu hộ đến, người con gái được đem lên xe. Còn những người qua đường thì nguyền rủa người con trai rồi lại bước đi. Người con gái cuối cùng không qua khỏi vì máu mất nhiều quá, người con gái lúc chết vẫn cười, tay vẫn giữ lấy chiếc nhẫn người con trai tặng trước đây. Còn người con trai vẫn đứng đợi, đợi mãi người con gái vẫn không quay trở lại. Người con trai khóc, khóc cả đêm, khóc đến nỗi chẳng còn ai chú ý đến người con trai khóc nữa.

    Và tại thùng rác nơi 2 người lần đầu tiên gặp nhau trước đây, người ta tìm thấy xác người con trai. Nụ cười trên mặt người con trai đã tắt, và vẫn ôm vào ngực 1 cái bánh bao mốc meo và 1 chai nước khoáng chưa mở.
     
  14. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Chuộc lương tâm
    Sưu tầm
    [​IMG]

    Cách đây hơn hai chục năm, hồi tôi học phổ thông cấp III, đồng hồ đeo tay còn là thứ xa xỉ phẩm khan hiếm. Một hôm, thằng bạn cùng bàn sắm được một chiếc đồng hồ mới toanh; nó đeo đồng hồ rồi xắn tay áo lên trông thật oách làm sao, khiến cả lớp phục lăn. Chỉ vài hôm sau đã thấy mấy thằng khác cùng lớp đua nhau sắm đồng hồ đeo tay. Ngay cả trong giấc mơ tôi cũng ao ước được như chúng nó: sắm một chiếc đồng hồ để mọi người trông thấy mà thèm.
    Hôm chủ nhật, tôi về nhà chơi. Lấy hết lòng can đảm, tôi nói với mẹ: “Mẹ ơi, con muốn mua một cái đồng hồ đeo tay, mẹ ạ !” Mẹ tôi trả lời: “Con này, nhà mình đến cháo cũng sắp sửa chẳng có mà ăn nữa, lấy đâu ra tiền để sắm đồng hồ cho con ?” Nghe mẹ nói thế, tôi rất thất vọng, vội quáng quàng húp hai bát cháo rồi chuẩn bị về trường. Bỗng dưng bố tôi hỏi: “Con cần đồng hồ làm gì thế hả?”
    Câu hỏi của bố nhen lên một tia hy vọng trong lòng tôi. Rất nhanh trí, tôi bịa ra một câu chuyện: “Hồi này lớp con đang học ngày học đêm để chuẩn bị thi đại học, vì là lớp cuối nên bây giờ chúng con lên lớp không theo thời khoá biểu của trường nữa, cho nên ai cũng phải có đồng hồ để biết giờ lên lớp.” Nói xong, tôi nôn nóng chờ bố trả lời đồng ý; thế nhưng bố tôi chỉ ngồi xổm ngoài cửa chẳng nói câu nào.
    Trở về ký túc xá nhà trường, tôi chẳng còn dám nằm mơ đến chuyện sắm đồng hồ nữa. Thế nhưng chỉ mấy hôm sau, bất chợt mẹ tôi đến trường, rút từ túi áo ra một túi vải hoa con tý rồi mở túi lấy ra một chiếc đồng hồ mác Thượng Hải mới toanh sáng loáng. Tôi đón lấy nó, đeo ngay vào cổ tay, trong lòng trào lên một cảm giác lâng lâng như bay lên trời. Rồi tôi xắn tay áo lên với ý định để mọi người trông thấy chiếc đồng hồ của mình.
    Thấy thế, mẹ tôi liền kéo tay áo tôi xuống rồi bảo: “Con này, đồng hồ là thứ quý giá, phải lấy tay áo che đi để giữ cho nó khỏi bị sây xước chứ ! Con nhớ là tuyệt đối không được làm hỏng, lại càng không được đánh mất nó đấy ! Thôi, mẹ về đây.”
    Tôi tiễn mẹ ra cổng trường rồi hỏi: “Sao nhà mình bỗng dưng lại có tiền thế hở mẹ ?” Mẹ tôi trả lời: “Bố mày bán máu lấy tiền đấy !”
    Bố đi bán máu để kiếm tiền mua đồng hồ cho tôi ? Trời ơi ! Đầu óc tôi quay cuồng, ngực đau nhói. Tiễn mẹ về xong, tôi tháo chiếc đồng hồ ra, bọc kỹ mấy lớp vải như cũ cất vào cái túi con tý mẹ đưa. Ngay hôm ấy, tôi hỏi thăm các bạn xem có ai cần mua đồng hồ mới không. Các bạn hỏi tôi tại sao có đồng hồ mà lại không đeo, tôi bảo tôi không thích. Họ chẳng tin, cho rằng chắc hẳn đồng hồ của tôi có trục trặc gì đấy, vì thế chẳng ai muốn mua nó.
    Cuối cùng tôi đành phải nhờ thầy chủ nhiệm lớp giúp tôi tìm người mua đồng hồ và thành thật kể lại đầu đuôi câu chuyện cho thầy nghe, vừa kể vừa nước mắt lưng tròng. Thầy chủ nhiệm nghe xong bèn vỗ vai tôi và nói: “Đừng buồn, em ạ. May quá, thầy đang cần mua một chiếc đồng hồ đây, em để lại nó cho thầy nhé !” Thầy trả tôi nguyên giá, còn tôi thì dùng số tiền đó nộp hai tháng tiền ăn ở nhà ăn tập thể. Có điều khó hiểu là sau đó chưa bao giờ tôi thấy thầy chủ nhiệm đeo đồng hồ cả. Mỗi lần tôi hỏi tại sao thì thầy chỉ cười không nói gì.
    Về sau tôi thi đỗ đại học rồi ra trường và làm việc ở một tỉnh lỵ xa quê. Câu chuyện chiếc đồng hồ kia cứ mãi mãi đeo bám ám ảnh tôi.
    Trong một dịp về quê thăm gia đình, tôi tìm đến nhà thầy chủ nhiệm cũ và hỏi chuyện về chiếc đồng hồ ấy. Thầy tôi bây giờ đã già, tóc bạc hết cả. Thầy bảo: “Chiếc đồng hồ vẫn còn đây.” Nói rồi thầy mở tủ lấy ra chiếc túi vải hoa nhỏ xíu năm nào mẹ tôi đưa cho tôi. Thầy mở túi, giở từng lớp vải bọc, cuối cùng chiếc đồng hồ hiện ra, còn mới nguyên !
    Tôi kinh ngạc hỏi: “Thưa thầy, tại sao thầy không đeo nó thế ạ ?” Thầy chủ nhiệm từ tốn trả lời: “Thầy đợi em đến chuộc lại nó đấy !” Tôi hỏi tiếp: “Thưa thầy, vì sao thầy biết em sẽ trở lại xin chuộc chiếc đồng hồ ạ?” Thầy bảo: “Bởi vì nó không đơn giản chỉ là chiếc đồng hồ, mà điều quan trọng hơn, nó là lương tâm của một con người.”
     
  15. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Một bữa tiệc
    Chu Hải Lượng
    [​IMG]

    Chị là Oshin – người giúp việc nhà cho một ông chủ ngoại ngũ tuần, rất giàu có. Đêm xuống, xong việc, vội vàng về với đứa con trai nhỏ 5 tuổi suốt ngày ngóng đợi trong căn nhà tồi tàn.

    Hôm ấy, chủ nhà có lễ lớn, mời rất nhiều bạn bè quan khách đến dự tiệc đêm. Ông chủ bảo: Hôm nay việc nhiều, chị có thể về muộn hơn không? Thưa được ạ, có điều đứa con trai nhỏ quá, ở nhà tối một mình lâu sẽ sợ hãi. Ông chủ ân cần: Vậy chị hãy mang cháu đến cùng nhé.


    Chị mang theo con trai đến. Đi đường nói với nó rằng: Mẹ sẽ cho con đi dự tiệc đêm. Thằng bé rất háo hức. Nó đâu biết là mẹ làm Oshin là như thế nào kia chứ! Vả lại, chị cũng không muốn cho trí tuệ non nớt của nó phải sớm hiểu sự khác biệt giữa người giàu kẻ nghèo. Chị âm thầm mua 2 chiếc xúc xích.

    Khách khứa đến mỗi lúc mỗi đông. Ai cũng lịch sự. Ngôi nhà rộng và tráng lệ… Nhiều người tham quan, đi lại, trò chuyện. Chị rất bận không thường xuyên để mắt được đến đứa con nhếch nhác của mình. Chị sợ hình ảnh nó làm hỏng buổi lễ của mọi người. Cuối cùng chị cũng tìm ra được cách: đưa nó vào ngồi trong phòng vệ sinh của chủ… đó có vẻ như là nơi yên tĩnh và không ai dùng tới trong buổi tiệc đêm nay.
    Đặt 2 miếng xúc xích vừa mua để vào chiếc đĩa sứ, chị cố lấy giọng vui vẻ nói với con: Đây là phòng dành riêng cho con đấy, nào tiệc đêm bắt đầu! Chị dặn con cứ ngồi yên trong đó đợi chị đón về. Thằng bé nhìn “căn phòng dành cho nó” thật sạch sẽ thơm tho, đẹp đẽ quá mức mà chưa từng được biết. Nó thích thú vô cùng, ngồi xuống sàn, bắt đầu ăn xúc xích được đặt trên bàn đá có gương, và âm ư hát… tự mừng cho mình.

    Tiệc đêm bắt đầu. Người chủ nhà nhớ đến con trai chị, gặp chị đang trong bếp hỏi. Chị trả lời ấp úng: Không biết nó đã chạy đi đằng nào. Ông chủ nhìn chị làm thuê như có vẻ giấu diếm khó nói. Ông lặng lẽ đi tìm. Qua phòng vệ sinh thấy tiếng trẻ con hát vọng ra, ông mở cửa, ngây người: Cháu nấp ở đây làm gì? Cháu biết đây là chỗ nào không? Thằng bé hồ hởi: "Đây là phòng ông chủ nhà dành riêng cho cháu dự tiệc đêm, mẹ cháu bảo thế, nhưng cháu muốn có ai cùng với cháu ngồi đây cùng ăn cơ".

    Ông chủ nhà thấy sống mũi mình cay xè, cố kìm nước mắt chảy ra, ông đã rõ tất cả, nhẹ nhàng ngồi xuống nói ấm áp: "Con hãy đợi ta nhé". Rồi ông quay lại bàn tiệc nói với mọi người hãy tự nhiên vui vẻ, còn ông sẽ bận tiếp một người khách đặc biệt của buổi tối hôm nay. Ông để một chút thức ăn trên cái đĩa to, và mang xuống phòng vệ sinh. Ông gõ cửa phòng lịch sự. Thằng bé mở cửa. Ông bước vào: "Nào chúng ta cùng ăn tiệc trong căn phòng tuyệt vời này nhé".

    Thằng bé vui sướng lắm. Hai người ngồi xuống sàn vừa ăn ngon lành vừa chuyện trò rả rích, lại còn cùng nhau nghêu ngao hát nữa chứ. Mọi người cũng đã biết. Liên tục có khách đến ân cần gõ cửa phòng vệ sinh, chào hỏi hai người rất lịch sự và chúc họ ngon miệng, thậm chí nhiều người cùng ngồi xuống sàn hát những bài hát vui của trẻ nhỏ. Tất cả đều thật chân thành, ấm áp.

    Nhiều năm tháng qua đi, cậu bé đã rất thành đạt, trở nên giàu có, vươn lên tầng lớp thượng lưu trong xã hội, nhưng không bao giờ quên giúp đỡ những người nghèo khó chăm chỉ. Một điều quan trọng đã hình thành trong nhân cách của anh: Ông chủ nhà năm xưa đã vô cùng nhân ái và cẩn trọng bảo vệ tình cảm và sự tự tôn của một đứa bé 5 tuổi như thế nào.
     
  16. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Phía dưới bầu trời xanh
    Sưu tầm
    [​IMG]
    Mợ đưa em về đây sống đã được hơn ba tháng. Em sống một mình trong căn nhà của cha mẹ mình để lại với một con chó nhỏ cũng mồ côi giống như em. Căn nhà gỗ lợp ngói đã phủ màu rêu phong, xung quanh nhà mối đã bao quanh, và chiếc cửa kẽo kẹt yếu ớt trước mỗi đợt gió to, nó hiu quạnh giữa cánh đồng mênh mông bạt ngàn. Em đã sống trong căn nhà đó, khi chưa đầy sáu tuổi tròn – một mình. Sáu tuổi, thế giới mà em có không phải là trường học, là những phút giây vui chơi vô tư với bạn bè và có một cuộc sống ít nhất là no đủ vòng tay chăm sóc của gia đình. Em không có những thứ đó ngay từ lúc sinh ra, người thân duy nhất mà em có đó là mợ. Em được đưa vào sống trong cô nhi viện, nơi có những đứa trẻ giống em, nơi em không bao giờ có được khái niệm sở hữu riêng cho mình bất kỳ thứ gì và sống dưới sự bố thí của xã hội. Em cũng chẳng hiểu được điều đó, nhưng có điều đáng lưu tâm đó là hoàn cảnh đặc biệt đã khiến em có thói quen chấp nhận, giỏi chấp nhận, mặc nhiên như thể cái lý do em sinh ra đã mất cha mất mẹ, sinh ra là đã có một số phận dành riêng cho mình.
    Thế là ngày mợ dắt em về đây, em đã chấp nhận cuộc sống tự lập một mình như một điều mặc nhiên. Cứ sáng sáng ra, khi đi chợ mợ ghé qua thăm em, mang cho em ít cơm và cho em uống thuốc, chập tối lại sang một lát rồi lại lật đật ra về. Em không đòi hỏi gì, không than vãn hay nhõng nhẽo, mợ cho gì ăn nấy, cho gì mặc nấy và em luôn cố gắng nghe lời. Có thể một phần bản chất em là một đứa trẻ ngoan, nhưng một phần do ảnh hưởng nếp sống những tháng ngày ở cô nhi viện. Không thể nói các cô các mẹ ở đó nghiêm khắc mà bởi một lẽ rất thực tế khiến em phải hiểu là nếu em không ngoan ngoãn thì các cô các mẹ sẽ ghét, sẽ không ai chơi với em. Hoàn cảnh sống đã cho em cái quan niêm về tình yêu thương gia đình chính là như thế, nghĩa là để có được tình yêu thương của họ em phải biết vâng lời, phải biết cố gắng để làm họ vui lòng. Giá như ai cho em một gia đình để em biết được em vẫn là trẻ em, hãy cứ vô tư đùa giỡn đi, hãy sống hồn nhiên như một đứa trẻ, cũng có lúc không ngoan, lúc đùa giỡn, cũng có lúc bị ăn đòn nhưng cha mẹ không bao giờ hết thương em cả, không ai buộc em phải khép nép, phải gồng mình lên vun vén cái sự yêu thương vốn dĩ luôn dành cho mình.
    Em chẳng bao giờ tự hỏi liệu rằng cuộc sống mới này có tốt hơn hay không, em chỉ biết cố gắng để thích nghi tốt với nó, hơn những đứa trẻ bình thường.
    Mùa này là mùa gặt. Những cánh đồng lúa trĩu vàng đã dần dần gặt xong để lại những gốc rạ long lánh vết cắt dưới nắng trưa. Những đứa trẻ chăn trâu cũng đã bắt đầu có những trò chơi mới trến cánh đồng chỉ còn trơ góc rạ. Nhóm thì thả diều, nhóm thì chơi ú tìm. Nhưng em đặc biệt thích thú với trận bóng đá của chúng hơn cả. Thế là chiều chiều, tự bắc nước nóng tắm cho mình xong, em lại lấy ghế ra ngồi chờ sẵn. Lòng em như rộn lên khi thấy tiếng lũ chăn trâu bắt đầu rôm rả đằng xa. Con chó nhỏ mà bây giờ đã lớn gần bằng em, nằm ngoan ngoãn dưới chân em. Đó là người bạn duy nhất của em, người mà em có thể trò chuyện mỗi ngày và bảo vệ em mỗi khi bóng tối về.
    - Mực ngoan, tí nữa mợ tớ sang rồi tớ cho ăn cơm nhé. Mực là tên của nó.
    Em đưa bàn tay xanh xao khô khốc của mình vuốt vuốt nhẹ nhàng lên lưng nó, hắt một tiếng thở dài. Cũng chẳng biết em thở dài vì vô tình hay cố ý, nhưng chẳng bao giờ em thở dài trước mặt mợ.
    Trận bóng đã bắt đầu. em trèo cả lên ghế, nhón đôi chân khẳng khiu yếu ớt của mình lên cho đến khi tê cứng để say sưa vào trận đầu.
    - Sút... sút… vào...
    Em khẽ reo lên, nhảy cẫng xuống đất, đôi mắt sáng lên một niềm vui như thể vô bờ. Con chó bị đánh thức, cũng vui vẻ đưng dậy vẫn đuôi hòa theo niềm vui với em.
    Nhưng niềm hăng say ấy cũng chẳng được bao lâu, khi mặt trời nhanh chóng lặn xuống, màn đêm và sự tĩnh lặng đáng sợ lại bủa vây lấy căn nhà. Em nuối tiếc khi thấy lũ chăn trâu lũ lượt ra về, để lại một khoảng trống đầy ắp những niềm khao khát được chạy nhảy, được tung bay của một chú chim non đã bị bỏ quên trong tổ quá lâu. Nhưng rồi em phải chấp nhận mà chờ đợi niềm vui nhỏ nhoi nhưng là tất cả ấy vào ngày mai. Đôi mắt thoáng buồn, em khẽ ôm con mực vào lòng.
    - Sau này khi nào lớn, nhất định tớ làm cầu thủ bóng đá. Em khẽ thì thầm, đôi mắt vương ánh nhìn xa xôi đáng lẽ không nên có ở lứa tuổi này. Nhưng quả thật em rất buồn, rất cô đơn giữa cánh đồng mênh mông hiu quạnh này.
    Có tiếng lạo xạo nơi xa, em vui sướng chạy ào ra trước cửa.
    - Mợ ơi!!!!
    Em hét to dù mợ đã chỉ còn cách em chừng mươi bước chân. Tiếng hét của em thanh thót, ngập tràn niềm vui, nó vang xa khắp cánh đồng hiu quạnh và lấn áp cả những tiếng côn trùng ếch nái đang rả rích kêu.
    - Vào nhà đi con, ngoài này gió lạnh lắm.
    Mợ xoa đầu em, bế cẩng em vào nhà. Thằng bé ngoan ngoãn nằm gọn trong tay chị, chị xót xa khi bàn tay chạm vào những thân hình gầy gò ốm yếu như một đứa trẻ lên ba của em.
    - Ăn cơm đi con, hôm nay mợ nấu canh cua đồng con thích ăn cho con này.
    Thằng bé ăn ngon lành tô cơm, cái tô cơm mảnh rành đã mẻ mất mấy miếng. Chị lặng lẽ quan sát thằng bé, nước mắt ứa ra vì thương xót cho cuộc đời của đứa cháu bé bỏng. Giá như ngày ấy, bây giờ trách người quá cố thì có tội nhưng giá như ngày ấy em gái chị đừng sinh nó ra thì có phải là đỡ khổ cho nó không. Chị nhớ cái ngày mẹ thằng bé chết, chị điếng người khi nghe lời trăn trối mà nó nói với chị rằng nó có một đứa con trai đang sống ở cô nhi viện. Chết cha còn chú, chết mẹ bú ghì, chị không ngại ngần nuôi đứa cháu máu mủ của mình nhưng khổ lắm đời đâu buông tha cho dễ thế. Cả bố mẹ nó chết vì HIV, ngày mẹ nó chêt, cả dân làng xôn xao, xa lánh, chị còn chưa kịp nhìn mặt em gái mình lần cuối thì người ta vội vàng mang nó hỏa táng đi, quét vôi khắp nhà và cũng gần như xa lánh với chị. Vì người ta muốn triệt tiêu hoàn toàn mối hiểm họa ấy.
    Ngày chị chân ướt chân ráo lên thành phố tìm cháu; ngày bế đứa cháu còn oe oe khóc đòi sữa mà chị không tài nào cầm nỗi nước mắt. Ôi đau đơn xiết bao, cuộc đời này nó hành hạ tâm can con người đến bao lâu. Nỗi đau hằn sâu trong sự khắc khổ lam lũ ruộng đồng của chị, héo úa trái tim và nụ cười chị. Thế nên chị quyết định đưa cháu về, dù cho ông chồng vũ phu dọa sẽ đuổi chị ra khỏi nhà nếu chị làm vậy.
    - Mầy không nghĩ cho mấy đứa con mày à, để cho chúng nó bị người ta xa lánh như cái hồi con em si-đa của mày chết hả.
    Rồi ông đánh, ông chửi, ổng lại đánh chị tả tơi như tàu lá chuối nhưng ý đã quyết thì có chết chị cũng phải làm. Cái đau đớn da thịt này chẳng thấm vào đâu so với nỗi giày vò cắn rứt của chị khi để cháu mình bơ vơ một mình. Nhiều đêm choàng mình tỉnh giậy, chị hốt hoảng về giấc mơ thây cháu mình chết nơi đất khách quê người, miệng vẫn không ngơt gọi tên mợ ơi, mợ ơi.
    Chị cũng chẳng biết được rằng đưa em về đây sẽ tốt hơn hay không, nhưng ít nhất nó khiến lòng chị thanh thản bớt, cảm thấy đôi vai mình nhẹ gánh đi bớt.
    Và thế là chị dắt em về. Nhưng chị nghèo, chị còn gánh nặng gia đình với bốn đứa con lớn có bé có, thêm một ông chồng ăn không ngồi rồi mà mạnh tay bạo chân với chị khiến chị không thể lo cho em một cuộc sống tốt hơn.
    Chị không biết đến bao giờ mới có thể bù đắp một cuộc sống đúng nghĩa cho em, khi cuộc đời của cháu chị ngắn ngủi và rồi cũng ra đi theo cái cách của cha mẹ em. Nhưng xót ở chỗ em làm gì nên tội cơ chứ?
    - Mợ ơi, sao mợ khóc.
    Em nhẹ nhàng lay mợ. Chị giật mình trở về thực tại.
    - Nào mợ có khóc đâu ?
    - Mợ đừng khóc, tí biết tí làm mợ khổ nhiều. Nước mắt mặn lắm, mợ đừng khóc.
    Chị cắn chặt môi vào hai hàm răng, chỉ muốn nấc lên những tiếng nghẹn ngào, sự ngây thơ nhưng đầy suy nghĩ ấy như một lưỡi dao xâu xé trái tim chị. Chị khổ tâm quá, chị nghèo quá, chị bất lực trước cuộc đời của cháu mình, hoàn toàn bât lực.
    - Mợ ợi, khi nào tí khỏi bệnh để khỏi uống thuốc hả mợ.
    - Khoảng chừng mấy bữa nữa là con hết bệnh thôi.
    - Khi ấy, tí sẽ đi học, tí sẽ học thật giỏi để kiếm thật nhiều tiền về cho mợ đỡ khổ, mợ nhỉ.
    - Ừ. Chị nói trong cổ họng nghẹn cứng. Chẳng biết em còn sống được bao lâu nữa để mà thực hiện được cái ước mơ ấy khi mang trong người căn bệnh thế kỷ. Nó cướp đi của em tuổi thơ, gia đình và những điều mà đáng ra một con người cần được hưởng.
    - Mợ mang cho con củ khoai, mợ nướng cho con ăn nhé.
    - Dạ. Thằng bé nhảy cẫng lên vui sướng, lon ton chạy theo. Chị nhóm mớ rạ khô chấp trước nhà, lửa bập bùng cháy sáng một góc trời. Thằng bé ngồi ngoan ngoan quan sát chị làm, thỉnh thoảng lại tự chạy đi xốc thêm tí rơm bỏ vào. Lòng chị ấm lại, chị chỉ có thể cho cháu những phút giây bình yên như thế này thôi.
    Nhưng rồi ngọn lửa rơm cũng chóng lụi tàn, chị cầm chiếc nón vội vã đi mà không dám nhìn thẳng vào đôi măt buồn rười rượi và khao khát tình thương của đứa bé. Nhưng nó chẳng nói câu gì, chẳng khóc lóc hay đòi hỏi gì, cứ lặng thing chờ cho bóng mợ khuất hẳn rồi lại tiu ngỉu như con chó vắng chủ lâu ngày. Chính vì thế chị càng đau xót.
    … Mùa đông đã đến, đón đầu bằng những trân mưa rả rích.
    Mấy bữa trước chị đã thấy căn nhà cháu mình đã xiêu vẹo, những tấm ván đã mục nhiều, gió lùa vào vun vút nhưng vì bận chưa sửa kịp. Lòng chị như lửa đốt, ngóng ra ngóng vô, bữa sáng đã nấu xong nhưng chị không lấy cớ gì để sang khi mà trời còn đang mưa rả rích. Ông chồng chị dạo này càng khó tính hơn, ông ta cay cú khi thấy mọi người cứ tim cách xa lánh gia đình ông. Cơ sự cũng tại thằng quỷ nhỏ ấy.
    Đến trưa thì nắng cũng đã lên. Chị mừng rỡ xách làn đi chợ.
    - Mày đi đâu.
    - Tôi đi chợ.
    - Đi chợ hả, đi chợ này… đi chợ này… ông phải đánh chết mày… đánh cho mày chừa… cái tội chứa chấp cái thằng quỷ si-đa đấy.
    Chị lẳng lặng chẳng nói chẳng rằng, cứ đứng yên cho nó thích làm gì thì làm. Tô cơm vỡ tan tành, cơm văng tứ tung, miếng cá kho tiêu chị để dành cho cháu cũng văng mỗi hướng một con. Đàn chó tục ăn chạy ào đến, táp lấy táp để miếng cơm vương vãi. Chị khóc, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, hai tay run run chị nhặt nhạnh những mảnh rành chiếc tô, đó là bữa cơm của cháu chị, bữa cơm mà lũ chó đang giành nhau ăn. Thế là chị đành lén đem sang mấy củ khoan luộc từ đêm qua cho cháu mình...
    ***
    Cả đêm qua trời mưa to suốt đêm, nghe đâu sẽ có áp thấp nhiệt đới. Sáng ra trời vẫn mưa to như không ngớt. Thằng con út của chị bỗng dưng chị sốt thương hàn thế là cả đêm qua chị trực bên nó, đến sáng nay vẫn chưa khỏi. Chị an tâm phần nào khi đã trữ cho em mấy củ khoai lang phòng khi mợ không sang được thì em tự nướng ăn.
    Cả đêm trời mưa, nước dột và hắt vào chiếc giường em đang nằm, lạnh thấu xương. Dạo này em thấy mình không khỏe, nhưng không dám nói với mợ. Bây giờ em đang sốt cao, cả người râm ran hồi nóng lạnh. Con mực cũng đã nhảy lên nằm cạnh em. Em chờ đợi mợ sang, thực sự chưa bao giờ em chờ đợi đến như thế. Có điều gì đó mach bảo em cố mà chờ đợi mợ sang. Em đói, bỗng thèm củ khoai lang nướng của dì, thèm cả những bát canh của đồng của dì. Em lạnh, lạnh run lên, hai tay và hai hàm răng run cầm cập, làn chăn mỏng ẩm ướt không sao ấp đủ ấm cho em.
    Mưa vẫn rơi, rả rích cho đến tận tờ mờ sáng hôm sau. Thằng út cũng đã đỡ hơn, chị chợp mắt một lát để lấy lại sức. Đang vừa lơ mơ ngủ thì bỗng đâu nghe xôn xao đầu ngõ, có tiếng ai vồn vã, có tiếng người thúc gục, khẩn trương, nghiêm trọng.
    - Chị Thơm đâu.
    - Thằng cháu chị nó chết rồi. Chị Thơm đâu
    Chị đang nằm trên giường bật cẫng dậy, chẳng nói chẳng rằng vớ lấy cái nón lao đi.
    “Chẳng tin được, cháu mình mới hôm trước còn khỏe mạnh, làm sao mà nhanh như thế được”. Chị nghĩ thầm trong dạ, trong khi đôi châm vẫn lao đi không kiểm soát được. Chị chạy băng qua cánh đồng thay vì đi theo đường mòn, trận mưa dài đã làm cho cánh đồng đầy ắp nước, lạnh ngắt cả đôi bàn chân. Nhưng thú thực lúc đó chị không còn thiết gì nữa, khi thấy đằng xa có chiếc xe cứu thương đang từ tư lăn bánh. Vài người mặc áo trắng ở lại, rải những lớp vôi dày lên khắp gian nhà. Chị đứng sững lại, tự hiểu điều gì đã xảy ra, khi mà cũng chỉ vài năm ngẵn ngủi về trước chị đã phải chứng kiến những cảnh đau đớn này.
    Đôi mắt chị mở to,đôi mắt khắc khổ với đầy những vết nhăn nhúm căng ra tột độ, hai tay chị run cầm cập, đôi chân chỉ như khụy lại.
    - Khôoooooooooooooooog….
    Chị hét lên đau đớn, lao theo chiếc xe đã bắt đầu những vòng xe đều đều êm ái và nhanh dần. Nó đã khuất xa tầm mắt của chị. Sau lưng chị nghe tiếng con mực kêu ăng ẳng và tiếng con người hô hoán:
    - Đập chết nó đi, đập chết nó đi.!!!
    Sau đó chị nghe thấy tiếng nó tru lên một hồi dài đau đớn rồi tắt lịm…
     
  17. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Chỉ là em nhớ anh thôi
    Sưu tầm
    [​IMG]
    Người ta vẫn luôn đong đếm tình yêu bằng độ dài của thời gian.

    Những ngày trời se lạnh, em bỗng dưng muốn viết một điều gì đó, để anh đọc sau giờ tan tầm, để anh ngồi nhâm nhi những khi uống cà phê buổi sáng, và để anh nhắm mắt một chút, nghĩ về em những khi ngồi vào bàn làm việc.

    Người ta vẫn luôn đong đếm tình yêu bằng độ dài của thời gian, có người yêu nhau vài tuần, hiểu nhau hơn yêu nhau vài tháng và... chịu đựng nhau tốt, yêu nhau cả năm, thậm chí một đời. Tháng ngày mình quen nhau chưa đủ dài để khoe khoang so bì với người khác, còn em chẳng dám đếm, sợ mình buồn. Nhưng, nếu tính trên một chuẩn mực khác, với một thước đo khác, rõ ràng chúng mình đã bên nhau lâu lắm rồi anh nhỉ. Ấy là khi em ước lượng tình mình bằng số kỉ niệm vui buồn chúng ta có với nhau.


    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...

    Em chẳng thể nhớ nổi số lần em đã trẻ con, hờn dỗi anh vì những chuyện vu vơ. Anh nhắn tin trả lời chậm, em dỗi. Anh qua đón em muộn, để em chờ vài phút, em dỗi. Anh cười chê truyện cười em kể nhạt, em dỗi... Tất cả những lần như thế, anh đều kiên nhẫn dỗ dành em, nhưng em vẫn cố tình làm kiêu, khiến anh buồn. Nhiều khi, em thương anh biết mấy, song ý thức tự cao của một đứa con gái được nuông chiều từ nhỏ khiến em không thể cười xòa mà bỏ qua. Còn anh, những ngày như thế, vẫn luôn kiên trì đến lạ lùng trước sự bướng bỉnh của em.

    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...

    Em chẳng thể nhớ nổi mình đã buồn bã, chán nản, tuyệt vọng như thế nào khi biết tin người yêu cũ có người mới. Rằng lý do muốn tập trung vào việc học thực ra chỉ là cái cớ cho một sự phản bội đã được toan tính kĩ lưỡng. Em thấy mình rơi vào hố sâu tuyệt vọng, cảm giác bị lừa dối khiến em ngộp thở. Và điều duy nhất em làm khi ấy, không khóc, không buồn, mà là tức giận với anh, trả lời hời hợt trước tất cả sự quan tâm anh mang đến. Dường như anh biết chuyện. Anh nói vài câu ngắn gọn, và để em tự do với nỗi buồn của mình. Nhiều người sẽ nghĩ rằng anh vô tâm, nhưng em biết anh hiểu em hơn nhiều cái thước đo thời gian vẫn nói, rằng em đủ mạnh mẽ để tự cân bằng mọi thứ những khi chuếnh choáng. Việc ai động vào em trong khoảng thời gian đó chỉ khiến mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn mà thôi. Anh đã luôn bên em trong những tháng ngày khó khăn và đơn độc như thế.

    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...
    Em chẳng thể nhớ được mình đã bao lần nổi hứng bất tử đòi anh mua cho cái này, đưa đi chỗ kia. Càng không thể nhớ được bao lần anh vội vàng rời khỏi công việc để tới đón em, nơm nớp lo em giận, bối rối ngượng ngập khi nhìn thấy gương mặt phụng phịu của em. Anh vẫn luôn lo lắng những khi lên mạng không thấy em buzz, đã ngốc nghếch tự tạo cho mình thói quen chúc em ngày mới tốt lành vào mỗi sớm mai. Thói quen thì dễ thành nhưng khó bỏ. Đặc biệt là thói quen yêu thương và được yêu thương. Anh vờ như không biết, cứ lặng lẽ quan tâm em...

    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...

    Em luôn thích thú khi trò chuyện cùng anh, để được thấy mình hồn nhiên vô cùng trong mớ câu chuyện không đầu không cuối, để thấy anh cười vang chê em nhỏ dại, để được anh vỗ về an ủi những khi làm sai chuyện gì đó, và để anh vụng về buông một câu khen hứng khởi khi em làm tốt phần việc được giao. Em vẫn thích nhìn thấy gương mặt anh lo lắng và bực bội khi em đồng ý đi chơi với một cậu bạn chưa từng gặp gỡ. Em vẫn nhớ vô cùng khoảnh khắc anh vội vàng phóng xe đến, chỉ để đưa em về, vì trời đã quá muộn còn cậu bạn kia thì vẫn vô tâm vui cười cùng bạn bè. Anh mắng em nhiều lắm, rằng em ngốc nghếch, rằng em chẳng biết nghĩ suy... Em ngồi sau lưng anh, hiểu rõ cả những điều anh không nói.

    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...
    Em không dám gọi những cảm xúc mà mình đang có là tình yêu. Bởi nó mơ hồ và khó đoán, và bởi chính bản thân em đôi lúc cũng không thể hiểu rõ chính mình. Nhưng em biết mình sẽ hạnh phúc bên anh. Sẽ chẳng có một lời tỏ tình nào đâu anh nhỉ. Vì chúng minh đâu phải người yêu, chúng mình chỉ đi bên nhau, bên nhau như thế!

    Em đã xem xong bộ phim 500 days of summer anh vẫn thích. Em vô tư thắc mắc rồi tình mình cũng sẽ như thế phải không anh? Sẽ không là một câu chuyện tình, chỉ đơn giản là một câu chuyện về tình yêu. Sẽ không ràng buộc người kia vào một danh phận nào đó, vào mối quan hệ nào đó với những lời hẹn ước không chắc có thể thực hiện. Sẽ chỉ trân trọng từng khoảnh khắc hạnh phúc, từng giây phút yêu thương tràn ngập tâm hồn mình. Sẽ chỉ biết tới tiếng cười, giản đơn mà vô cùng đáng quý. Để ta không nài nỉ những điều xa vời, để ta biết trân trọng những gì mình đang có.

    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...

    Thì em vẫn muốn viết tặng anh vài dòng vu vơ, để nó quyện cùng những tia nắng hanh hao mỗi buổi sáng theo chân anh tới trường hay tới chỗ làm thêm. Em sẽ gìn giữ tình cảm của mình, nuôi lớn nó từ những mong manh mơ hồ, từ những hoang hoải của nỗi đau cũ, từ những cố gắng yêu thương từ cả hai đứa mình. Và em chờ đợi tới ngày tim mình đủ dũng cảm để vang lên những câu hát rất nhẹ...

    Dù chúng ta chẳng phải người yêu...
    … thì em vẫn muốn viết những dòng như thế. Chỉ là em nhớ anh thôi.
     
  18. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Xin lỗi và Cảm ơn
    Lê Thị Thủy
    [​IMG]
    Ai đó đã nói, điều hạnh phúc thứ nhất là khi mình yêu một ai đó, điều hạnh phúc thứ hai là có một ai đó yêu mình!
    Em – đứa con gái từ nhỏ đã được ba mẹ quá bao bọc, quá che chở, chưa bao giờ thiếu thốn cái gì, cũng chưa bao giờ phải lo nghĩ đến chuyện tiền bạc. Chưa một lần em tự quyết định bất cứ điều gì cho dù là nhỏ nhất trong cuộc đời mình, nên giờ đây em không thể tự lập, không thể tự giải quyết mọi khó khăn trong cuộc sống sinh viên mặc dù em đã là sinh viên năm hai. Em có thói quen dựa dẫm và ỷ lại vào người khác.
    Anh - chàng trai em vô tình quen trên chuyến xe buýt muộn cuối ngày. Anh - người đã động viên và giúp đỡ em trong những lúc khó khăn và bế tắc nhất của cuộc sống. Anh có biết rằng em biết ơn anh vô cùng.
    Em muốn nói với anh lời xin lỗi. Xin lỗi anh vì những phiền toái em gây ra cho anh, vì những cuộc điện thoại lúc nửa đêm, vì những tin nhắn không đầu không cuối mà cũng không nội dung trên Yahoo, vì những ưu phiền trong cuộc sống của em, và vì cả những lần lỡ hẹn. Em bắt anh chờ cả giờ đồng hồ do đi gặp người “trong mộng” của mình - người mà em cứ coi như thần tượng để rồi một ngày nhận ra tất cả tình cảm mình dành cho người đó chỉ là ngộ nhận. Em xin lỗi vì biết anh bận ôn thi mà vẫn cứ kéo anh đi bằng được hết con phố này đến con phố khác. Em xin lỗi vì biết rằng gia đình anh cũng không khá giả gì mà suốt ngày đòi anh mua thứ này thứ kia chỉ cốt thỏa ham muốn nhất thời. Em xin lỗi vì đã bắt anh đi cùng em dưới những cơn mưa mùa đông lạnh giá để rồi những ngày sau dù bị ốm anh vẫn phải đến nhà và chăm sóc cho em. Em xin lỗi vì chỉ làm theo ý thích của mình mà không cần nghĩ đến suy nghĩ và cảm giác của anh. Em xin lỗi vì em luôn gợi anh nhớ đến chị ấy - mối tình đầu của anh - qua những câu hỏi tò mò. Em xin lỗi vì… trái tim em… đã lỡ nhịp vì anh mất rồi.
    Em muốn nói lời cám ơn anh. Cám ơn, vì anh đã chăm sóc em trong suốt hai năm xa nhà này, vì anh không bao giờ để em cô đơn một mình, chỉ cần một tin nhắn, một cú điện thoại là anh có mặt ngay cạnh em. Cám ơn, vì anh bao giờ cũng giải đáp những câu hỏi ngớ ngẩn của em. Cám ơn, vì anh chẳng bao giờ hỏi tại sao thế này? tại sao thế kia?... khi em phạm sai lầm. Với anh khi nào cần em sẽ nói, anh không ép buộc em phải nói ra những suy nghĩ trong lòng mình. Anh để em tự do phiêu du cùng những giấc mơ của em. Anh cho em thời gian và không gian yên tĩnh để tự ngẫm về những lỗi lầm em gây ra, không trách móc, không to tiếng nhưng chính điều đó đủ để làm em phải suy nghĩ về bản thân mình. Cám ơn anh vì những lần lặng im rong ruổi theo em hàng giờ đồng hồ trên những con phố cổ. Cám ơn anh vì đã cùng em đi dưới những cơn mưa mà không một lời phàn nàn, kêu ca. Cám ơn anh vì anh đã luôn im lặng lắng nghe những yếu đuối trong em. Cám ơn anh vì những lời khuyên để em có thể tự đưa ra quyết định cho riêng mình. Cám ơn anh vì bờ vai vững chắc, vì nụ cười luôn nở, vì ánh mắt tự tin và kiên cường, vì những cái ôm thật chặt, vì những cái nắm tay kịp thời. Tất cả cho em sự bình yên của tâm hồn và một cảm giác an tâm. Cám ơn anh vì những bài hát đêm khuya. Cám ơn anh vì những lời chúc ngủ ngon mỗi đêm, và cả những tin nhắn mỗi sáng gọi em dậy đi học. Cám ơn anh vì… đã làm trái tim em lỡ nhịp.
    [​IMG]
    Anh nói: lời xin lỗi chân thành nhất khi ta nói và nhìn thẳng vào mắt họ. Nhưng em không đủ can đảm để nhìn vào mắt anh - đôi mắt biết cười.
    Em muốn là ngọn lửa sưởi ấm lòng anh, làm tan chảy khối băng đá trong anh. Em muốn đem đến cho anh nụ cười và hạnh phúc. Em muốn từ nay trở đi sẽ không phải nói lời xin lỗi cũng như cám ơn anh nữa. Em muốn không phải dựa vào anh mà sẽ là chỗ dựa cho anh những lúc anh mệt mỏi nhất. Em muốn làm cốc nước lọc mỗi khi anh khát, là liều thuốc đắng mỗi lần anh ốm, là chiếc giường êm ái mỗi khi anh buồn ngủ, là chiếc đồng hồ báo thức gọi anh dậy. Em muốn là một phần trong trái tim anh, dù em không phải tình đầu, nhưng em sẽ là người cùng anh đi hết cuộc đời này.
    Ai đó đã nói rằng, điều hạnh phúc thứ nhất là khi mình yêu một ai đó, điều hạnh phúc thứ hai là khi có một ai đó yêu mình. Và điều hạnh phúc nhất là cả hai điều này cùng xảy ra, khi hai trái tim cùng chung nhịp đập.
     
  19. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Bắt đầu từ những ngày mình quen nhau
    Nguyễn Thị Mơ
    [​IMG]
    Bắt đầu từ những ngày mình quen nhau, anh nhé...
    Em đi làm, công ty đầu tiên của em từ ngày em ra trường. Gặp anh, đối tác của công ty. Cho em nói thật nhé, ấn tượng ban đầu của em về anh không tốt. Và em biết anh cũng thế. Vì sao ư? Vì anh là kỹ sư xây dựng. Trước khi biết anh lâu rồi, em đã tự nhủ lòng mình: không bao giờ được thích một chàng trai xây dưng… Còn lí do, em đã giải thích cho anh rồi thì phải. Anh trêu em “ghét của nào trời trao của ấy”. Em chống chế: “em bảo em không thích, chứ có bảo là em ghét đâu”. Anh thua 1-0 rồi nhé.
    Chúng mình thường đi ăn cơm trưa cùng nhau, và dĩ nhiên là cùng những người khác. Nhiều đến mức em chẳng thể nào nhớ nổi chúng mình đã nói những chuyện gì. Rồi đi uống nước, đôi khi chỉ có hai người. Có lẽ, anh là người mà em đi uống nước cùng nhiều nhất đấy. Em thích vậy, vì khi ngồi yên và ngắm nhìn mọi thứ chuyển động xung quanh, em thấy bình an. Cũng không thể nhớ hết những gì chúng mình đã nói với nhau, chia sẻ, tâm sự, chuyện cười… Anh bắt đầu thích em rồi, phải không?

    Bắt đầu từ những ngày mình thân nhau, anh nhé…
    Em nghỉ thứ 7 và đi làm vào chủ nhật. Điều đó có nghĩa là chỉ mình em một văn phòng, mình em ăn trưa và uống nước. Anh đã nói gì khi em hỏi anh chủ nhật mà anh vẫn xuất hiện tại văn phòng nhỉ? “Anh thì làm gì có ngày nghỉ?”. Có phải đấy là cái cớ anh muốn gặp em ko? Nếu anh từ chối thì em cho thêm bằng chứng nhé. Anh phải đi học vào chủ nhật, và một buổi trưa em nhận được cuộc gọi với nội dung thế này: “Anh có việc gần công ty, đi ăn trưa với anh nhé?” Bây giờ thì anh còn muốn chối nữa không?
    Hàng ngày gặp nhau, làm việc cùng nhau, ăn cơm cùng nhau, có hôm đi về cùng nhau một đoạn đường, vậy mà anh vẫn rủ em đi ăn tối, và đi dạo. Anh đang tán tỉnh em hay muốn ở bên em? Anh thực sự thích em rồi, phải không?

    Bắt đầu từ những ngày mình nhớ nhau, anh nhé….
    Anh làm ở công trình, nghĩa là thường xuyên vắng mặt ở văn phòng. Em làm bên hành chính giấy tờ, và dĩ nhiên cũng thường xuyên “biến mất”, có khi là vài tiếng, có khi là cả buổi. Mỗi khi đi từ công trình lên văn phòng, anh rất mong nhìn thấy em ở chỗ ngồi quen thuộc, đúng không? Nếu không thì em vẫn còn lưu tin nhắn em nhận được vào một buổi sáng chủ nhật em đi làm, anh kết thúc bằng 3 chữ: ane. Ba từ viết tắt này không biết còn nghĩa khác nào không nhỉ…
    Một tháng em về quê một lần, chỉ về 2 ngày thôi mà anh cứ làm như chúng ta đã lâu rồi không gặp ấy. Dù em tin là anh không phải trả tiền điện thoại, nhưng nếu cuối tháng anh có thấy hóa đơn điện thoại nhiều hơn một chút, anh cũng đừng ngạc nhiên đấy nhé. Có phải khoảng cách làm anh thấy nhớ em nhiều hơn không? Anh đã nhớ em, ngay cả trong giấc mơ của anh, đúng không?

    Bắt đầu từ những ngày mình bên nhau, anh nhé…
    Em, chân trần đi dạo bên anh trên những con đường dải sỏi ở Lăng Bác. Em thích thú ngắm trẻ con và cố gắng thơm vào má một vài đứa. Bố mẹ chúng trêu chúng ta rằng: xem cô muốn có em bé lắm rồi này?
    Em và anh, cùng nhau đi xem phim, trong tiết trời lạnh cóng, lạnh đến mức ôm anh nhưng em vẫn thấy run, và anh vẫn cười dù răng va vào nhau lập cập. Trong lòng anh, và cả em nữa, đã thấy rất ấm áp, và hạnh phúc, phải không anh?
    Em đi dạo cùng anh trên bãi biển, anh ôm em từ phía sau, ngắm nhìn những đợt sóng xô bờ. Em và anh, cũng như những con sóng ấy, dù đôi lúc không ở bên nhau, nhưng luôn là một phần của đại dương mênh mông, anh nhỉ?
    Em và anh, cùng đi chợ và cùng nấu những bữa cơm như một gia đình. Anh luôn khen tất cả những gì em nấu, dù ngon hay dở. Em biết có lúc món em nấu không ngon, nhưng em nấu bằng cả tấm lòng, nên anh, lúc nào cũng hào phóng lời khen ngợi. Em giả vờ không thích, nhưng thực ra là ngược lại đấy. Anh biết không, một trong những viễn cảnh em thường mơ về một gia đình hạnh phúc, đó là chồng em sẽ ôm em từ phía sau khi em nấu bữa tối, anh đã giúp em thực hiện rồi đấy…Hạnh phúc, bắt đầu từ những gì giản dị nhất, như thế này, phải không anh?
    Mùng 7/3, em và anh bên nhau, chúng mình đi ăn và đi uống nước, đơn giản nhưng ấm áp. Em bất chợt nói về tương lai và những đứa con. Em bất chợt thấy đong đầy trong mắt anh niềm hạnh phúc. Anh đã yêu em mất rồi, phải không?

    Bắt đầu từ những ngày mình giận nhau, anh nhé…
    Tại sao chúng mình lại giận nhau nhỉ? Anh hút thuốc, em không thích thuốc lá, thực ra là ghét lắm ấy, nhưng sao lại không ghét được anh nhỉ? Khi mà khói thuốc của anh làm em ho. Khi mà anh và bạn anh vẫn đốt thuốc dù em, và cả anh nữa, đang ốm và ho sù sụ, và chỉ dừng lại khi thấy em ho quá nhiều, là khi em thấy giận anh lắm đấy.
    Em thích chọc giận anh, dù quá hiểu anh đến mức là anh sẽ phản ứng theo đúng những gì em nghĩ trước khi nói, em vẫn cứ chọc. Câu hỏi duy nhất anh vẫn hỏi em khi anh giận là: “Em nghĩ anh là người như thế sao?” Không phải đâu anh ạ. Anh đã nói với em rằng: “Với người khác, anh chơi bời, xấu xa… còn với em thì không thể”. Em không quan trọng anh đã là người như thế nào, vì em nghĩ quan trọng là “khi bên em, anh là người như thế nào…” Và như thế, chúng mình chẳng bao giờ thực sự giận nhau anh nhỉ? Duy chỉ có một lần….

    Bắt đầu từ những ngày mình xa nhau, anh nhé…
    Em làm anh tổn thương hay anh làm em tổn thương, điều đó không quan trọng, quan trọng là chúng mình đã xa nhau. Tuần đầu tiên, có lẽ là khó khăn nhất, anh nhỉ. Anh rời xa Hà Nội, chỉ vài ngày, khoảng cách không còn làm chúng mình thấy xa nhau hơn, khi đã xa nhau ngay từ trong suy nghĩ…
    Rồi gặp mặt, chỉ lặng im, vẫn quán quen, nhưng hai người nhìn nhau im lặng, đôi khi mỉm cười nhưng là nụ cười héo hắt. Không hiểu nổi đối phương đang nghĩ gì, không biết phải làm gì, ngồi bên nhau nhưng thấy lòng trống trải. Tạm biệt để về, em cũng không biết mình đã nghĩ những gì, chỉ biết là muốn gặp, nhưng lại không biết gặp để làm gì…
    Gần một tháng… chúng mình vẫn nói chuyện, điện thoại, yahoo, đều là anh chủ động. Anh hỏi em: “Sao em không nhắn tin hỏi thăm anh như ngày trước?”. Em bảo rằng: “Em muốn anh quên em, rằng em muốn chúng mình là bạn, nhưng nếu điều đó là khó khăn với anh, thì anh quên em cũng được…”
    Lần đầu tiên chúng mình nói chuyện sau khi không nhắn tin gọi điện đến một tuần, trong offline message anh gửi em, anh nói anh ước rằng anh ước anh chưa từng quen em, nên giờ em đang ngồi đây, viết lại chuyện của chúng mình, gửi cho anh, để anh có thể dùng phím back, để xóa….
    Mất gần một tháng để em thực hiện mong muốn này của anh, vì đối với em việc này rất khó. Anh có thể quên em, nhưng em sẽ nhớ…
    [​IMG]
    Em sẽ nhớ cách anh làm hòa mỗi khi em giả vờ giận, khi chúng mình chat với nhau qua mạng, anh gửi em một nụ hôn, sự thật là em luôn mỉm cười khi nhận chúng.
    Em sẽ nhớ bờ vai anh khi chúng mình đi uống nước sau bữa trưa, em bảo là em mượn để em ngủ. Sự thực là em chưa bao giờ ngủ trên vai anh, em chỉ thích dựa vào anh, thế thôi.
    Em sẽ nhớ cách anh khen những món anh em nấu, khoa trương nhưng lại thật lòng.
    Em sẽ nhớ cách anh dỗ em khi làm em khóc, ôm em trong lòng, ấm áp sẽ làm nước mắt em ngừng rơi. Sao anh lại biết điều này?
    Em sẽ nhớ cách anh xin lỗi. Với con trai, đôi khi nói lời xin lỗi là rất khó. Nhưng anh, đã luôn nói vậy khi thấy mình sai, thế là đủ để cho em tha thứ rồi.
    Em sẽ nhớ cách anh nhìn em, em có thể đọc được tất cả những gì anh nghĩ và anh muốn qua ánh mắt của anh. Người ta thường không thích bị nhìn thấu, nhưng biết làm sao, khi mà em đã hiểu anh hơn cả bản thân mình thế này.
    Còn nhiều, nhiều lắm những điều em sẽ nhớ, nhưng lại muốn anh quên em, để bắt đầu một tình yêu mới. Em biết là sẽ khó lắm, thế nên em mới viết hết ra, để anh có thể dùng phím back, và xóa. Hãy xóa, bắt đầu từ những ngày mình quen nhau, anh nhé…
     
  20. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Giấc mơ Biển và Gió
    Nguyễn Phương Vy
    [​IMG]
    Trời đang mưa, những cơn mưa bất chợt và vô tình. Chúng bất chợt rơi trên vai nó và vô tình chạm vào trái tim nó. Trái tim đang rỉ máu và mong muốn được hồi sinh một lần nữa để biết thế nào là hạnh phúc, là niềm vui.
    Anh đã đến bên nó và ra đi như một cơn gió. Anh là gió, một cơn gió vô tình. Gió đến rồi gió lại đi, gió có bao giờ ở lại nơi đâu? Nhưng đó là một làn gió ấm áp và dịu dàng. Gió hôn lên má nó mỗi lúc nó buồn, gió đến mang theo mùi thơm nhẹ nhàng của hương ổi, mang theo một ít vàng nhạt của nắng và thổi bùng vào nó một chút sinh khí. Nó cảm thấy cuộc sống thật dễ chịu, thật ấm áp khi có gió bên cạnh… Rồi gió đã đi mất. Gió ra đi, mang theo cả tình cảm mà nó dành cho gió. Chỉ còn nó, ở mãi nơi đây, trông chờ theo từng bước chân của gió, nhưng biết đến khi nào thì gió trở lại…
    • Hạnh phúc
    Nó chỉ là một con bé bình thường, anh là chàng trai được nhiều cô gái ngưỡng mộ. Chắc anh không biết là nó đã thích anh từ khi nó học lớp 5 đâu nhỉ? Lúc đó nó thấy anh học thật giỏi, có nụ cười thật dễ mến và nó đã thích anh ngay từ lần gặp đầu tiên đó. Đến giờ, cảm xúc ấy trong nó vẫn còn rõ mồn một. Nó nhớ rất rõ gương mặt anh, nụ cười của anh. Nó nghĩ chắc là nó đã thần tượng anh mất rồi…
    Thời gian trôi qua, nó lên cấp II và nhận được sự quan tâm của nhiều bạn nam cùng lớp. Hình ảnh của anh trong nó cũng dần phai nhạt. Đến năm lớp 9, nó nhận được tin nhắn Yahoo của anh: “Hôm nay rảnh không? Chúng ta đi chơi nha!” Cảm giác rối bời xen lẫn buồn vui khó tả bất chợt hiện lên trong đầu nó.
    Nơi nó và anh hẹn nhau không phải quán cà phê hay tiệm trà sữa mà là ở nhà sách. Lần hẹn hò đầu tiên của nó. Nó đến đó như đến gặp người quen lâu rồi không gặp, với mái tóc mới cắt xong, ăn mặc thì luộm thuộm. Vừa gặp anh nó đã nhận ra ngay, vẫn ánh mắt nhìn nó trìu mến đó, vẫn nụ cười lúc nào cũng rạng rỡ trên môi. Lúc này tim nó đập loạn nhịp. Dường như lồng ngực nó sắp vỡ tung ra, chính lúc đó nó biết rằng mình vẫn còn tình cảm với anh.
    Anh cùng nó dạo quanh nhà sách, vừa hỏi nó có sách gì hay không giới thiệu cho anh. Nó miên man giới thiệu cho anh hàng loạt sách tâm đắc. Theo giác quan của một người con gái thì dường như anh đang lén nhìn nó. Anh đặt tay vuốt nhẹ lên mái tóc nó. Nó nhìn anh, anh vội quay đi nơi khác. Nó cảm nhận được cái cảm giác ấm áp đến lạ lùng khi nó ở bên cạnh anh, cái cảm giác mà nó không bao giờ nhận thấy khi đi bên cạnh những người con trai khác. Con tim nó xao xuyến và thực sự hạnh phúc khi ở bên anh.
    Anh mang đến cho nó sự bình yên, sự tĩnh lặng trong tâm hồn, sự thoải mái, hồn nhiên khi nó được thực sự là chính nó, không phải bắt ép mình thùy mị, dịu dàng như bao người con gái khác. Nó mến anh bởi điều đó. Ở bên anh, lúc nào nó cũng cười đùa thật vui vẻ, anh chưa bao giờ làm cho nó phải khóc.
    Nó và anh liên lạc nhiều hơn, anh thường xuyên hỏi han, lo lắng cho nó từng chút một. Với nó, anh là một hình mẫu tuyệt vời, anh an ủi những lúc nó buồn, anh luôn là bờ vai vững chắc để nó có thể dựa vào và khóc, anh chăm sóc khi nó bị bệnh, luôn động viên những lúc nó vấp ngã… Nó nhớ mãi cái lần anh nắm tay nó thật chặt, nó nhớ mãi cái nhéo má hôm nào, nhớ luôn từng câu nói ấm áp anh trao, nhớ con gấu bông anh tặng và nhớ da diết hình bóng của anh.
    Những ngày tháng có anh nó như sống trong mơ, một giấc mơ toàn màu xanh của trời, của biển, và điểm thêm sắc vàng cuối thu. Một giấc mơ không choáng ngợp, không sắc đen của cuộc đời, chỉ có gió và biển. Nó thích biển, nó thích màu xanh ấy, thích những làn sóng trắng gợn qua, biển hiền hòa, êm đềm và nhẹ nhàng, lúc nào cũng cho người ta có cảm giác vô cùng dễ chịu.
    Biển êm ả như một người con gái đẹp, không giận dữ, luôn vui vẻ và hạnh phúc vì biển biết luôn có gió ở bên cạnh. Gió mang đến cho biển sự ấm áp, sự yêu thương mà trước đây biển chưa hề cảm nhận được khi ở bên sóng hay bên nắng. Cái cảm giác không tên ấy cứ thôi thúc biển phải yêu thương gió nhiều hơn và biển nghĩ không điều gì có thể khiến gió và biển xa nhau.
    • Đánh mất
    Nó đã ví anh như là một giấc mơ, một giấc mơ thoáng qua trong cuộc đời nó thì cuối cùng nó cũng phải tỉnh dậy và đối diện với hiện thực. Hiện thực mà nó luôn muốn trốn tránh.
    Cuối năm lớp 9, nó phải chuẩn bị cho kì thi chuyển cấp nên thời gian nó và anh gặp nhau không còn nhiều như trước, thậm chí chỉ gặp nhau qua Yahoo mà thôi. Khoảng thời gian đó với nó là ngắn ngủi bởi nó chỉ vùi đầu vào sách vở. Thi chuyển cấp xong lại lao vào học không ngừng nghỉ để chuẩn bị cho kì thi sát hạch đầu năm, vậy mà tình cảm giữa hai người vẫn được duy trì bền chặt. Lên cấp III, nó và anh học chung trường nhưng sự trùng hợp đó lại không dẫn đến hạnh phúc. Người ta nói xa mặt cách lòng nhưng đối với nó thì không phải. Nó và anh ở ngay bên cạnh nhau, chỉ cách một dãy lớp học mà sao thấy xa quá.
    Cái cảm giác ấm áp ngày nào chợt không còn nữa. Không hiểu vì sao lại như vậy? Nó cứ đi tìm cái cảm giác không tên như trước kia nó đã từng cảm thấy khi ở bên anh. Anh và nó đi chung trên cùng một con đường. Nó hồn nhiên, cười đùa vui vẻ còn anh thì chỉ mãi đi. Bao lần anh giấu nó vẻ mặt của mình và chỉ gượng cười. Nó biết anh đang giấu nó, nó biết anh chỉ giả vờ vui vẻ khi đi bên nó mà thôi. Ngay bây giờ đây, nó muốn anh nắm lấy tay nó thật chặt, cùng nó bước tiếp trên con đường ấy. Nó chờ anh rất lâu, nhưng anh không làm vậy. Nó nhìn vào mắt anh, đôi mắt ấy bây giờ không còn chan chứa niềm yêu thương dành cho nó nữa. Anh và nó đã đi hết con đường nhưng không ai nói chuyện với ai.
    Nó vào nhà, lên phòng, đóng sầm cửa và bật khóc. Những giọt nước mắt rơi ra từ đôi mắt tuyệt đẹp của nó. Nó nhớ anh. Sao anh lại làm như vậy với nó? Nó không hiểu gì cả, không biết chuyện gì đang diễn ra và tại sao lại như vậy. Lúc này nó rối bời. Sinh nhật năm nay nó cũng không nhận được quà từ anh. Có lẽ giữa anh và nó đã có một khoảng cách…
    Những ngày sau đó, nó lao đầu vào việc học hành để quên anh, quên người đã làm cho nó hạnh phúc rồi lại rời bỏ nó. Anh thì khác, anh vẫn mãi là anh. Vẫn là một người được nhiều cô gái ngưỡng mộ. Nó nhớ có lần anh đang giải hộ cho nó bài toán thì không biết ở đâu ba, bốn cô gái chạy tới, xin nick chat và số điện thoại, còn làm cho nó ngã nhoài xuống đất. Nó ghét như vậy. Nhưng chuyện đó thì cứ liên tục xảy ra. Chiều nay nó phải học thêm toán ở trường. Thật buồn, hôm nay trời mưa. Trước kia nó thích mưa lắm, nó thích hắt những giọt nước mưa vào mặt anh. Nhưng từ ngày anh đi, nó không thích mưa nữa, vì mưa rất lạnh, mà lại không ai ở bên cạnh nó để chọc cho nó cười, hay áp tay vào tay nó cho nó quên đi cảm giác lạnh.
    [​IMG]
    Một buổi chiều cuối thu trời đổ mưa rả rích. Những chiếc lá vàng bay phất phơ trong gió. Nó ngồi ngắm mưa, ngắm những giọt mưa đầu tiên rơi xuống, cũng như rơi vào trái tim đang lạnh buốt của nó. Nó nấc lên từng tiếng. Nó lại nhớ anh nữa rồi. Làm sao xua đi những suy nghĩ mông lung trong đầu nó ngay bây giờ? Làm sao để nó thôi không nghĩ về một người? Nó cứ mãi suy nghĩ vẩn vơ, nó đi lang thang trong mưa, không biết đâu là điểm dừng. Dường như đó đã đánh mất một điều quan trọng đối với nó. Nó cứ đi, cứ suy nghĩ.
    Về đến nhà, nó ngồi ngay vào bàn, mở cuốn nhật kí ra và viết: “Ngày… tháng… năm… hình bóng của anh vẫn ở trong trái tim tôi đã 5 năm rồi, một khoảng thời gian khá là dài nhỉ? Nhưng có lẽ giờ đây tôi đã mất anh thật rồi, tôi đã buồn, đã khóc nhưng điều đó không khiến anh trở về với tôi. Tôi phải tiếp tục là chính mình, là con người thật của tôi. Cho dù tôi có đau buồn thế nào đi nữa thì quy luật cuộc sống vẫn không thay đổi, nước vẫn tiếp tục chảy, mưa vẫn tiếp tục rơi và anh… vẫn là anh.”
    Cuối cùng gió đã ra đi, đã rời xa biển. Biển vẫn mong ngóng, vẫn đợi chờ nhưng có lẽ gió sẽ không về nữa đâu. Gió ra đi, biển không thể níu kéo vì biết mình không thể ương bướng giữ gió lại ở bên mình, nhưng những kỉ niệm đẹp đó biển sẽ mãi chôn giấu vào những lớp cát sâu…