Ai đó đã nói rằng, điều hạnh phúc thứ nhất là khi mình yêu một ai đó, điều hạnh phúc thứ hai là khi có một ai đó yêu mình... Và điều hạnh phúc nhất là cả hai điều này cùng xảy ra, khi hai trái tim cùng chung nhịp đập.
Khúc hát đồng Quê Chữ Văn Long Anh hát em nghe khúc hát đồng quê Cho lắng lại vui buồn muôn thuơ Cho mẹ thương con, cho chồng thương vợ Người không thương nhau có rất ít ở trên đời. Anh hát em nghe về những con người Sống với đất, chết lẫn vào cùng đất Chỉ để lại nụ cười chân thật Như hoa đồng, cỏ nội nở rồi quên. Những câu hát nhắc anh, những câu hát nhắc em Ăn hạt gạo không quên người cày cuốc Bao vất vả gian lao đã có gì được hưởng Ai quên ai khuya sớm nhọc nhằn? Có điều gì luôn day dứt trong anh Như thể tình yêu, như lời thề thốt: Suốt đời thương em làm sao khác được Anh cũng thương đồng, thương bãi vậy thôi! Câu thơ anh, anh viết suốt đời Xin gửi trọn mồ hôi cho đồng cho đất Mong nắng bớt dữ dằn, mong mưa đừng ngập lụt Mong mùa màng thôi thất bát đói no Có điều gì luôn nuối tiếc ngẫn ngơ Xin tuổi trẻ đừng qua mau, xin tuổi già đến chậm Những đôi lứa sau ta bớt đi lận đận Sống đến trăm năm, yêu đến bạc đầu. Anh hát em nghe với cả nguyện cầu Con người sống với nhau cứ mãi còn vụng dại Để mãi mãi thương nhau, để thương nhau mãi mãi Người không thương nhau có rất ít ở trên đời...
Khúc hát Đồng Quê Vũ Minh Nguyệt Ông bà cha mẹ tôi đều là nông dân. Tôi sinh ra và lớn lên ở làng. Tôi ra đi cũng từ làng. Ba năm quân ngũ tôi đóng quân ở thành phố. ở cái nơi mà ánh sáng ban ngày, ánh điện ban đêm đều như nhau cả. Tôi không hoà nhập được với cuộc sống thị thành. Muốn học theo một cái gì đó lại thấy mình như thằng bé hớn hở đuổi theo bao điều phù du không có thật. Chỉ một vẩng trăng mười bốn cũng làm tôi thèm đến quay quắt cả người. Một đêm đứng gác cổng doanh trại tôi hỏi thằng bạn. "Mày biết bây giờ tao thích cái gì nhất?". "Một con gà quay và mấy cốc Tiger". "Sai bét. Được chạy dưới trăng, ngửa mặt nhìn trời, hít căng lồng ngực". Nó cười và cho tôi là "vẽ chuyện".Bây giờ thì tôi đã về với làng. Làng tôi như nửa vành trăng nằm trong khúc vòng cung của con đê ngăn nước lũ. Ngước mặt lên là nhìn thấy núi, núi cao vời vợi. Cúi xuống thấp hơn là gặp được sông, sông trôi lờ lững. Quay phải, quay trái đồng ruộng trải dài. Mưa. Mưa vũ vã. Mưa trắng trời. Làng ngập nước trong ánh chớp loà và tiếng sấm sét rền vang. Ngoài đồng nước trắng mênh mông. Tiếng ếch nhái, ễnh ương kêu ộp oạp. Và côn trùng eo ỉ. Đồng quê như tấu lên một bản nhạc buồn buồn. Ngày đầu tiên tôi trở về làng là như vậy. Bà nội cứ thở ngắn thở dài, cẩm rẩm. Bà nói với mọi người mà như nói một mình vậy. "Giời với chả đất. Lúa má ngập sạch mất. Của ăn đến miệng rồi ông giời cũng không tha". Rồi bà lọ mọ ngồi giã trầu bằng chiếc cối đồng bé tý. Mùi trầu cay cay quyện vôi thấy nồng nồng ấm ấm sực cả gian nhà. Bỏ miếng trầu giã nát tươm vào mồm bà lại bảo "Ngày xưa thế này cầm chắc mất mùa". Mẹ tôi cười giả lả "Bà lại ngày xưa rồi. Con cháu nghe mãi". Mà đúng thật bà kể lể thôi là kể lể. Nào đời bà cực lắm. Đi làm dâu từ năm 13 tuổi. Lỡ đánh cái rắm mà xấu hổ bỏ về nhà mấy năm giời. Ai xuống gọi cũng trốn biệt. Đến khi mẹ chồng xuống nịnh nọt mãi mới chịu về nhà chồng. Mới đầu vợ chồng mấy tháng không dám nhìn mặt nhau. Đến đận ông đi bộ đội mới dám gần gũi với nhau rồi ông lại đi biền biệt suốt. Bà đẻ bố tôi mấy tháng ông mới được về. ở nhà chơi với con vài ngày ông lại phải đi, nghe đâu lần này ông theo đơn vị đi xa lắm. Bà tôi hay kể lại rằng lúc ấy mới khoảng cảnh ba ông bấm vào tay bà rồi hai người trở dậy. Bà khẽ đặt thằng bé (là bố tôi) xuống ổ rơm cho mẹ chồng rồi khoác tay nải lách cửa đi theo ông ra tận đường lớn. Lúc xuống đò ông ngoái lại dặn: "Nhà ở lại trông nom mẹ già và con nhỏ, tôi đi đợt này có dễ...". Rồi bà có mang cô Tâm ba tháng thì được tin ông hy sinh. Bà phiền muộn nên cô Tâm đẻ ra ốm đau, sài đen mãi. Bà khổ quá. Lấy chồng chưa biết nhớ, biết thương thì đã thành goá bụa. Bố mẹ tôi thương bà lắm. Tôi lớn lên đã quen nếp nghĩ bà nội tôi hiền từ nhân hậu nhất làng. Tôi khôn dần bằng lời ru bà cất lên với điệu ngân ai muôn thuở. Mưa ngớt dần rồi tạnh hẳn. Ngoài hiên nhà những giọt nước nhỏ tý tách xuống máng tôn đều đều như gõ nhịp. Tôi không biết mình đã thiếp đi từ lúc nào. Gần sáng tỉnh dậy, trăng hạ tuần xuyên qua cửa sổ chiếu vào giường lành lạnh. Bố đã dậy từ lúc nào. Bố vừa hút xong điếu thuốc lào đang ngồi nhả khói. "Sao bố dậy sớm thế". "Mày ngủ nữa đi. Con nước to lắm. Tao phải ra đê xem thế nào". "Bố cho con đi với". Tôi vùng dậy với bộ quân phục mặc vào người rồi bước theo bố. Ba năm trước lúc chưa đi bộ đội tôi cũng đã có những buổi đi canh đê chống lụt như thế này. Đêm nghe nước thon thót trở mình. Thấy mênh mang, mênh mang một nỗi buồn lo về vụ tới. Rồi những người đàn bà khi xúc gạo nấu cơm họ không quên bốc lại một nắm. Người nông dân lúc nào cũng lo mùa màng thất bát. Điếm canh đê hôm ấy bọn con gái mang theo cả khoai lang luộc và ngô rang. Con trai chúng tôi chúi đầu vào đám tiến lên. Ăn, uống, chơi bài chán chúng tôi lôi tiếu lâm ra kể cho nhau nghe. Hôm ấy tôi đã kể rằng: "Có một đôi nam nữ yêu nhau, họ đưa nhau ra đồng lúa ngồi hóng mát. Ngồi mãi mà chẳng ai nói được câu nào. Anh con trai bảo: Lúa năm nay tốt nhỉ? Người con gái: Phân mà lị. Người con trai: Trăng hôm nay sáng nhỉ? Người con gái: Rằm mà lị. Rồi cuối cùng người con trai bảo: Hôm nay em xinh thế! Người con gái trả lời: Yêu mà lị". Cả lũ cười nghiêng ngả. Anh luyện xã đội trưởng quát: Chúng mày đi gác đê hay ra đây cười. Rồi chính anh cũng lăn ra cười và bảo tôi "Thằng này khá". Những đứa con gái ngày ấy bây giờ đều đã lấy chồng. Mấy năm qua mà quê tôi hầu như không có gì thay đổi. Cuộc sống có thể khác đi nhưng ao bèo, hồ sen, ruộng lúa thì vẫn vậy. Bố con tôi ra đến đầu đê đã nghe tiếng máy bơm chạy sình sịch. Ngoài sông con nước xuống dần. Trong điếm canh đê mọi người đã về ngủ hết. Khu trạm bơm mười hai vòi nước phun trắng xoá. Bố tôi nói oang oang với mấy anh trạm bơm "ấy chà! Định nghiêng đồng đổ nước ra sông hả?". Chợt giọng ai đó với ra "Chào chủ nhiệm! Nước xuống nhanh lắm, chỉ chiều mai cây lúa lại bình yên!". Bố vừa đi vừa lẩm bẩm. "Nước rút cũng mau, năm nay mưa không kéo dài nên cũng đỡ".Mờ sáng bố con tôi mới về đến rìa làng. Làng quê vẫn còn yên tĩnh. Quang cảnh như vừa hiện ra trong trẻo và mát mẻ. Phía chân trời hừng đông đã ưng ửng. Trăng lặn từ lúc nào. Trên trời một vì sao mai nhấp nháy. Đầu kia tốp người ra trông nước đang nói cười hể hả. Qua xóm trại, dưới nếp nhà thấp sau lùm tre, có bóng người trong ngõ đi ra. Bố tôi lên tiếng: - Cô Hà đấy à? Đi đâu mà gồng gánh sớm thế? - Bố con bác đi ngó nước về. Em đi bán mấy con lợn giống. Đói kém đến nơi rồi! - Thôi mang về đi. Mai sang tôi lấy mấy thúng thóc cho các cháu ăn tạm. Lúa đã chắc đòng rồi. Cô ngập ngừng rồi quay lại. Dáng tảo tần khuất dần sau lùm tre. Trời thu cao lồng lộng. Heo may về sớm. Con lũ sớm qua nhanh. Dòng sông quê tôi lại hiền hoà êm ả. Mấy con đò sang sông sớm chiều tấp nập. Làng tôi rổn rang bước vào mùa cưới. Hôm nay đám cưới chị Hoà. Bố tôi sang làm thịt lợn từ sáng sớm. Tôi sang đến nơi thấy các bà, các cô đang lau bát đĩa, ngoài sân mấy người gọt bí, thái măng tấp nập. Trong nhà chị Hoà đang gấp áo gối sai người mang đến nhà trai. Quê tôi con gái lấy chồng có viên mãn hay không cứ nhìn vào gối cưới thì thấy. Họ tự tay mua vải rồi nhờ vẽ, tự thiêu, tự móc và cặm cụi nắn nót như gửi gắm cả đời con gái. Chị Hoà hỏi tôi mà đầu vẫn cắm xuống cái áo gối. - Mày ra quân rồi à! Có định đi đâu không hay ở lại quê? - Thì em đang đứng trước mặt chị đây. - Tao hỏi sau này cơ. - Em ăn mòn bát đĩa thiên hạ rồi, không ở đâu bằng quê mình. - Tao biết vậy mà. - Thế chị đã lát gạch đường làng chưa? Không trả lời tôi, chị Hoà cười tủm tỉm. Con gái quê tôi dù lấy chồng ở làng hay lấy chồng thiên hạ, mỗi người đều lát một trăm viên gạch xuống đường làng để đánh dấu ngày chấm dứt thời con gái. Tục lệ ấy có từ lâu lắm rồi. Bà tôi ngày xưa cũng như thế, đến lúc các chị gái tôi cũng vậy. Chẳng hiểu con đường ấy được bắt đầu từ đâu và tục lệ ấy đã bắt đầu từ bao giờ, chỉ biết rằng đường đi khắp ngõ xóm vươn dài mãi một màu nâu bóng. Quê tôi trai gái ít bỏ làng mà đi. Ngoài việc đồng áng, con gái quanh năm cắm cúi làm hàng thêu xuất khẩu nên bàn tay cũng nuột nà nhưng dáng ngồi thì gù hẳn xuống. Đàn ông có nghề đóng gạch, xây nhà và bán ra thiên hạ. Làng tôi đẹp hơn có lẽ một phần bởi những bàn tay nhỏ nhắn thêu thùa và những đôi chân dẫm đất vào lò chắc nịch. Làng tôi bao đời sinh ra những cô thôn nữ đẹp dịu dàng như dải lụa. Các cụ bảo ngày xưa khi còn là Tổng cũ mỗi năm làng đều có con gái đẹp để tiến vào cung vua. Rồi các cụ lại bảo ngày xưa khúc sông Hoàng Long uốn quanh làng chỗ bãi cát bây giờ những hôm trở trời thật để được nhìn tận mắt bầy tiên tắm nhưng chả thấy bao giờ. Chuyện tiên tắm thì không biết có hay không nhưng dòng sông quê tôi thì lạ thật. Lúc sáng sớm mặt nước loang loáng khói bốc mù mịt. Buổi trưa khi có ánh nắng chiếu xuống, mặt nước tím sẫm lại. Rồi chiều về dòng nước lại trong veo mềm như dải lụa xanh. Nắng hanh vàng, gió hây hẩy. Heo may về hơi lạnh đã thấy săn da. Vắt qua cánh đồng xa tít tắp trước làng là con đường lớn. Hai bên đường là hàng cây mà các trai làng trồng lưu niệm trước lúc lên đường, dù là đi học hay đi bộ đội. Cây xà cừ tôi trồng cách đây 3 năm trước bây giờ đã vươn cao, cành lá um tùm, mướt mát xanh, tươi tốt. Dưới vệ đường mọc đầy cỏ may. Lúa là người bạn của nó. Khi lúa chắc đòng thì cỏ may xanh mướt. Sương thu lãng đãng trôi qua như khoác lên mình nó một tấm áo bàng bạc mờ mờ, ảo ảo. Nắng thu trải dài trên cánh đồng, rắc lên hoa cỏ may như những giọt sương lấp lánh. Tôi lang thang trên cánh đồng. Sương mù lãng đãng trôi trên đường. Những bước chân bỗng nhẹ tênh như đưa tôi đến một niềm mơ ước mới. Phía cuối kia nắng vàng yếu dần. Hoàng hôn thu hình như buông chậm. Tiếng chuông chùa bên xóm đạo thánh thót ngân nga. Tôi đang đến với Mỵ. Con đường này Mỵ đã kể cho tôi nghe câu chuyện đàn ông, đàn bà trên trái đất. Dù đã biết từ lâu rồi nhưng câu chuyện em kể tôi nghe như mới lạ: Ngày xưa thánh Ala chỉ sinh ra trên trái đất một người đàn ông. Ba mươi vạn năm sau người đàn ông đã tìm gặp thánh Ala tâu rằng "Tâu đức thánh tối cao. Con cô đơn quá không sao sống được". "Người cứ về đi và sẽ không còn cô đơn nữa", và trái đất có thêm một người đàn bà. Ba mươi vạn năm nữa người đàn ông lại tìm gặp thánh Ala "Lạy đức thánh cao cả. Nó lắm mồm quá con không thể sống nổi". "Người cứ về đi sẽ không còn ai lắm mồm nữa đâu". Người đàn ông trở về trái đất thấy người đàn bà đã biến mất và ông ta cho đó là điều thật may mắn. Nhưng một lần nữa sau ba mươi vạn năm người đàn ông lại tìm gặp thánh Ala "Thôi lắm mồm cũng được. Xin thánh Ala cao cả. Hãy cho người ấy về với con". Rồi phải mất hàng triệu năm sau nữa và thêm rất nhiều lần trả giá, người đàn ông và người đàn bà mới tìm được tiếng nói chung... Có lúc tôi muốn nghĩ người đàn bà đó là Mỵ, có lúc lại không. Tôi yêu em nhưng gia đình tôi băn khoăn vì em là con gái đạo, em là con của Chúa. Cả cánh đồng dưới chân tôi mênh mang ngân lên một khúc hát. Bộ hồ sơ xin việc của tôi nó đang nằm ở đâu? Tôi đã quên tự lúc nào. Làn gió heo may se se dạo qua cánh đồng bát ngát. ánh trăng lên cao buồn cô liêu, nửa dỗi hờn, nửa như chờ đợi. Sắp đến giữa thu rồi. ánh trăng vằng vặc rạng rỡ toả khắp cánh đồng, tôi lâng lâng lăn người ra cỏ. Tôi dang tay ôm cả bầu trời. Cỏ dưới người tôi ấm mềm như nhung lụa. Đồng lúa rầm rì nghe như tiếng hát xa xôi. Tiếng hát hiến dâng cho con người những phút giây huyền diệu nhất. Xung quanh tôi nồng nàn mùi đất ẩm. Đất sinh ra con người, con người nặng lòng với đất. Mỵ ngớ ngẩn hỏi tôi rằng: Mai sau đất khô cằn hết chất, con người sẽ sống bằng gì? Lòng đất sẽ mở ra đến vô tận và vô cùng Mỵ ạ.Ngoài sân đình rộn rã tiếng cười. Tiếng trống ếch thì thùng mời gọi. Vầng trăng như tròn hơn, sáng hơn. Mỵ nắm chặt tay tôi chạy ra phía ấy. Điệu múa sạp gọi tuổi thơ của chúng tôi về thổn thức. Tôi bảo: - Mỵ còn nhớ ngày xưa lúc nhảy sạp Huy hay hát xuyên tạc rồi bị mắng không? - Bây giờ Huy hát lại đi. Mỵ cười rồi bắt tôi hát lại "Bà già bà chê tôi già. Bà già bà chê tôi đen. Tôi đen tôi lấy người đen. Tôi đen lấy chi con bà...". Ngày ấy lũ trẻ chúng tôi đã chơi đùa thâu đêm cùng gió, cùng mây, cùng trăng... Còn bây giờ tôi đang đứng đây. Tôi và em giữa mênh mông trăng toả. Trăng rực rỡ, gió mát rượi cất tiếng gọi thu nghe dịu dàng như lời con gái. Từng đôi nam nữ đan tay vào nhau bước rộn ràng theo nhịp gõ. Xòn xòn xòn đô xòn. Xòn xòn xòn đô rê. Rê rê rê mí xì rê. Rê rê mí rê đô là... Những bước chân gái trai uyển chuyển. Tôi nắm chặt tay em, bàn tay mềm mại của em trong tay tôi có chút dịu dàng của mùa thu, rợp mát của mùa hè và nồng nàn của mùa xuân. Trăng khuya treo tít trên trời. Tôi muốn đêm thu dài ra mãi. Trời đừng sáng trăng, cứ thế này lung linh và huyền ảo. Mỵ lại hỏi tôi câu hỏi ngày xưa em chưa biết: chân trời bắt đầu từ chỗ nào? Chân trời bắt đầu từ nơi con người sinh ra. Buổi chiều cuối thu cả cánh đồng phủ sương bàng bạc. Phía xa kia là chân trời rực hồng ráng đỏ. Bố đi thăm đồng, bóng bố tôi ẩn hiện dưới hàng cây, bố cầm trên tay nắm lúa vàng hây hẩy. Nét lo toan thường ngày trên mặt bố giãn ra. Đâu đó tiếng gọi í ới lao xao trong ngõ xóm. Lòng thấy vui vui như một điều gì quan trọng lắm vừa mới định hình. à thì ra là hương lúa. Cái mùi ngai ngái, ngòn ngọt quấn quýt bước chân người về. Chiều thu suộm lại như một dải vàng óng ánh trên cánh đồng. Trong hoàng hôn cỏ may hai bên đường hung hung thẫm lại. Giọt nắng cuối ngày lẫn vào mắt lúa. Cả cánh đồng rì rào đuổi nhau theo gió xô bờ như những lớp sóng vàng xô vào bờ. Tôi bước đi mê man giữa những lớp lúa hai sương một nắng của mẹ. Bắt chước bà nội, tôi rứt một cọng lúa vàng đưa lên môi nhấm nháp, thấy vị ngọt tê tê đầu lưỡi, hương thơm ngan ngát dâng lên nghe hồn mình lắng đọng.Buổi chiều bà nội giục mẹ mang liềm, hái ra lau lại. Rồi bà ngồi nhai trầu. Nhìn ánh mắt hấp háy của người già tôi biết bà đang vui chờ vụ lúa mới, mặc dù lúa cũ còn đầy cả cót trong nhà. Bà nhắc mẹ hái cho bà một nắm lá thơm đủ loại: Mần chầu, ngải cứu, lá tre, lá sả... Mẹ thả tất cả lá thơm vào nồi to đun nước để bà tắm gội. Bà lên giường nằm và bà ngủ mãi. Bà nội tôi ra đi như vậy. Thanh thản nhẹ nhàng như đi vào cõi Phật. Đám tang bà, bố tôi mặc áo xô đầu đội nùn rơm, thắt dây chuối ngang thắt lưng, chống gậy đi giật lùi sau linh cữu. Mẹ tôi, cô Tâm khóc vật vã. Các chị gái toi khóc ròng ròng. Lúc đưa bà ra đồng mặt trời đã lên cao, nắng chan hoà toả khắp thôn xóm, cánh đồng. Sau quan tài có cả các bác, các chú đại diện cho Mặt trận Tổ quốc xã, ban quản trị Hợp tác xã, cùng rất đông các cụ ông, cụ bà và xóm làng đưa tiễn. Các cụ già bảo "Cụ ăn ở phúc đức lắm nên lúc theo tổ tiên mới nhẹ nhàng như vậy". Tôi không thể tin hẳn bà nội tôi đã mất vĩnh viễn. Đứng bên linh cữu bà, tôi lại như thấy mình bay lên. Tôi bay vào một miền cổ tích, ở đấy bà tôi đang kể chuyện "Giếng mắt rồng", truyện "Mẹ lúa"... Tôi không khóc mà nước mắt cứ trào ra thành một dòng lăn dài xuống cổ áo bộ đội bạc... Người ta đặt bà trong bãi tha ma của làng. Mọi người chen nhau vào ném xuống huyệt những hòn đất ướt. Ai đó ấn vào tay cô Tâm một nắm đất, cô thả nhẹ xuống rồi lại dụi dặm khóc: "Mẹ ơi từ giờ con biết tìm mẹ ở đâu...". Trên mộ bà có mấy vòng hoa, một bát cơm thật đầy cắm đôi đũa và quả trứng gà luộc. Sáng hôm sau mọi người làm cơm cúng ba ngày cho bà. Nhìn mọi người vào ra tấp nập tôi chắc tưởng tượng thấy dáng bà lom khom, lọ mọ ở góc nào. Tối ấy mọi người về hết, mẹ tôi bảo bây giờ chắc bà gặp được ông rồi. Bố vẫn gục đầu xuống hai gối giọng thì thào nghe thật xa xôi "Thương bà quá, cả một đời lo cho con cháu". ở nhà vài ngày cô Tâm tôi lại về Hà Nội. Trước khi đi cô thắp hương rồi gục xuống bàn thờ bà nức nở: "Hi... hi... mẹ ơi, nếu như mọi ngày mà còn chuẩn bị đi thế này là mẹ săm sắn lo cho con rồi đây mẹ ơi... Ư... ư". "Bố tôi dắt chiếc xe cúp 81 ra sân rồi dặn:- Mày đèo cô ra bến, đi đứng cho cẩn thận. Quay sang cô, bố tôi nhẹ giọng: - Thôi em ạ, đằng nào thì mẹ cũng đi rồi. Anh em đùm bọc nhau. Mẹ tôi quay vào lau nước mắt. Cảnh nhà trống vắng quá. Tất cả lại cuốn đi. Công việc nhà quê đang mùa gặt hái. Bố lại vắng nhà luôn, lúc ở ngoài đồng, khi lên Uỷ ban, hôm lại xuống huyện họp. Mẹ con tôi tất bật mùa màng. Trời xầm xì nặng trịch cũng là lúc những gánh lúa cuối cùng mang về nhà gọn ghẽ. Phía xa kia là chân trời nhuốm một màu vàng xuộm. Trên cao hơn nữa mây cuồn cuộn như một núi bông xốp xộp. Chân trời phía ấy sương xuống lạnh hơn. Một nỗi buồn da diết choán ngập lòng người. Cả cánh đồng đã gặt hết còn trơ gốc rạ. Mặt ruộng nứt toác ra, những chỗ đã cày ải rực lên một mùi đất mới. Mùi nồng nàn đằm thắm thiết tha. Đấy là mùi hương quyến rũ nhất của đồng quê ban tặng con người. Con gió chiều cuối thu xào xạc. Mấy chiếc lá vàng bay bập bênh như nỗi chia xa của mùa thu, khẽ chao nghiêng rồi rơi luôn về cội. Trên ngọn tre mấy cánh cò chấp chới, dập dờn, dập dờn trốn vào thinh không cao ngút ngát. Xa xa tiếng sáo ngập trời huyễn hoặc. Không gian chứa chan sự yên bình bí ẩn. Diều nhà ai ở tít trên cao, chui vào giữa những đám mây bồng bềnh, chỉ còn tiếng sáo vẫn ngân nga, da diết. Đó là những khúc hát của đồng quê thả lên nền trời một bài ca bất tận.
Bớt đi Bớt đi một chút muộn phiền Cho thêm má thắm cho kiên định lòng Bớt đi một chuỗi long đong Đời người ngắn ngủi mi cong mắt cười Bớt đi một thuở yêu người Buồn thân em gánh một đời dở dang Dối lòng chi phút lang thang Đội mình dưới nắng chang chang giọt buồn Bớt đi một giọt mưa tuôn Giấu lòng như đá ngọn nguồn tình yêu Bớt đi những sớm cùng chiều Bên thềm lá đổ người yêu xa vời Bớt lòng lạnh giá hỡi người Cho dù mắt thấy mười mươi sự tình Bớt đi một sớm bình minh Mặt trời vàng úa tình mình mãi xa. Sưu tầm
Bớt đi Bớt đi một chút ồn ào Cho lòng thư thái như vào chùa thiêng Bớt đi một chút của riêng Cho giàu ân nghĩa thiêng liêng ở đời. Bớt đi chút lửa, cơm sôi... Cho tình chồng vợ suốt đời yên vui Bớt đi tham vọng nhẹ người Năm dài tháng rộng cuộc đời nhẹ tênh. Ngại chi sóng gió nổi nênh Bớt đi giận dỗi thác ghềnh phải lui Bớt buồn để cộng thêm vui Dao cau mắt ướt giếng trời long lanh. Chắt chiu ngày tháng dụm dành Thêm hoa thêm nụ, bớt cành lắm gai Bớt đi thù hận, oan sai Mưa giông rồi tạnh, nắng mai bên thềm. Sưu tầm
Tản mạn! Ngày hôm qua đã thành dĩ vãng... ngọt ngào Không hờn ghen không khổ đau không trách móc Em dấu mình trong quầng thâm khó nhọc Chuyện đôi mình như thế có gì đâu. Hôm qua em khóc và hôm nay mắt em vẫn sưng mọng như hôm qua. Nhưng lý do để em khóc thì thật khác nhau anh ạ. Hôm qua em đã khóc vì anh, hôm nay em khóc vì chuyện đời chỉ là giống nhau vì em đã rơi nước mắt. Em không tiếc nước mắt rơi mà chỉ tiếc rằng mình không còn được yêu anh hơn thế. Em khóc vì anh bởi em vẫn đau đáu về phía anh em vẫn nhìn anh từ phía xa sát sịt một tầm với. Tình yêu không nhất thiết phải là nước mắt đâu anh cũng chẳng phải những lời chót lưỡi đầu môi, tình yêu cũng không cần những lời hoa mỹ bởi mỹ miều không níu kéo nổi trái tim yêu. Em khóc vì những yêu thương, em khóc vì những nỗi niềm về anh em gói ghém vào hành trang bước tiếp trong đời. Em khóc vì nửa đêm vẫn trằn trọc một giấc mơ anh bao bọc lấy thân em. Em khóc vì sự bất lực của chính mình đấy thôi anh. Ngoại em bảo tu ba kiếp mới có duyên gặp nhau tu chín kiếp mới nên duyên chồng vợ thì phải chăng em đã không đi được hết chặng đường dài. Mùa đông rồi lạnh lắm anh ơi em khóc để khiến lòng ấm lại dù những giọt nước mắt muôn đời vẫn chỉ là vô tình chảy ra từ tuyến lệ. Đôi khi nước mắt em rơi cũng vì vô tình mà thôi bởi chuyện đời vẫn chảy vẫn trôi và người vẫn cứ ra đi vội vã. Bởi vội vã nên không kịp đưa tay và nhìn lại phía sau cuối con đường một lời nói rơi vương. Em buông tay anh chẳng phải vì tình yêu em dành cho anh đã chết mà chỉ tại những trách nhiệm gắn liền số phận con người. Em chết chìm linh hồn trong mớ gai nhọn của tâm hồn lăn lóc, nó khiến em chảy máu tinh thần và cạn kiệt trong nỗi đau bé tí tẹo. Thì hãy hy sinh đi cho nỗi đau gắn kết với hình hài, phôi thai cho một cuộc sống mới. Buông nhau ra không có nghĩa là đoạn kết một tình yêu, những điều đã vỡ cũng không có nghĩa giới hạn cuối cho những giọt nước mắt rơi. Em đã khóc cho một phần rất nhỏ bé những vết băng hoại trong cuộc đời. Em không khóc than mà chỉ yên lặng nghe tiếng nước mắt lăn chầm chậm mệt nhoài trên má. Thoáng ngẩng đầu em bước về phía không anh. Sưu tầm!
Quê Hương Đỗ Trung Quân Quê hương là gì hở mẹ Mà cô giáo dạy phải yêu Quê hương là gì hở mẹ Ai đi xa cũng nhớ nhiều Quê hương là chùm khế ngọt Cho con trèo hái mỗi ngày Quê hương là đường đi học Con về rợp bướm vàng bay Quê hương là con diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con đò nhỏ Êm đềm khua nước ven sông Quê hương là cầu tre nhỏ Mẹ về nón lá nghiêng che Là hương hoa đồng cỏ nội Bay trong giấc ngủ đêm hè. Quê hương là vòng tay ấm Con nằm ngủ giữa đêm mưa Quê hương là đêm trăng tỏ Hoa cau rụng trắng ngoài thềm Quê hương là vàng hoa bí Là hồng tím giậu mồng tơi Là đỏ đôi bờ dâm bụt Màu hoa sen trắng tinh khôi Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương có ai không nhớ....
Tản mạn! Quê hương..! Trong trái tim mỗi người Việt Nam, tình yêu quê hương có lẽ là thứ tình cảm thiêng liêng nhất. Mỗi người sinh ra, ai mà không có cội nguồn gốc gác, ai mà không có quê hương. Quê hương là nơi ta sinh ra và lớn lên, nơi chôn rau cắt rốn của ta. Quê hương cho ta những kỷ niệm ngọt ngào, cho ta tuổi thơ tươi đẹp. Quê hương dạy ta những bài học làm người đầy ý nghĩa, để cho ta lớn khôn và trưởng thành. Với tôi, quê hương có một vị trí vô cùng đặc biệt, chiếm một vị trí quan trọng trong trái tim tôi. Vùng quê tôi nghèo lắm. Con người sống chủ yếu bằng nghề nông, ngày ngày làm việc trên cánh đồng, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Cuộc sống cơ cực, vất vả, đầy khó khăn, thiếu thốn, có những lúc còn không đủ ăn, đủ no. Mặc dù sống trong cảnh bần hàn, khó khăn là thế, nhưng con người nơi đây sống có tình có nghĩa. Xóm làng yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Họ sống với một tình cảm chân thành, chất phác, trong sáng, một thứ tình cảm chỉ có ở những người nông dân nghèo. Quê hương Hưng Yên chính là nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, đó cũng là nơi đã cho tôi tuổi thơ tươi đẹp, ngọt ngào. Có thể nói, tôi sinh ra trong sự yêu thương của gia đình và lớn lên trong sự đùm bọc, ấm áp tình làng nghĩa xóm. Xa quê hương từ bé. Cho nên, nhiều kỷ niệm thời thơ ấu, tôi đã khóa chặt trong ký ức. Những lần từ HN trở lại quê hương thường gắn liền với những mất mát vô cùng to lớn đối với tôi và gia đình. Vì vậy, có nhiều ký ức vẫn nằm sâu trong ngăn kéo trái tim. Giờ đây mới có dịp trở về thăm quê hương, ký ức bỗng nhiên tràn về. Những cảm xúc khó diễn ta tràn ngập trong cõi lòng. Tôi sanh ra vào một ngày hè oi bức trên quê hương. Ngày ấy, gia đình tôi cũng nghèo lắm. Tuổi thơ tôi 4 năm sống trên quê hương. Quãng thời gian ấy đủ cho tôi có những ký ức, kỷ niệm ngọt ngào. Khi mới sanh ra đời, tôi bụ bẫm, đáng yêu lắm (Chứ không đáng ghét như bây giờ đâu). Xóm làng, ai cũng yêu quí và thích bế tôi. Dòng sữa ngọt ngào, mát lành đã nuôi tôi lớn suốt thời thơ ấu không chỉ của mẹ tôi. Tôi ở quê với mẹ và anh trai. Cha tôi một mình trên HN cực nhọc kiếm từng đồng tiền gửi về quê, không có điều kiện về thăm mẹ con thường xuyên. Một mình mẹ tôi với hai anh em nơi quê nghèo xoay sở hết sức khó khăn. Chính những lúc khó khăn ấy, sự cưu mang, đùm bọc của làng xóm đã cho mẹ con tôi động lực để vượt qua tất cả, cho tôi những kỷ niệm ngọt ngào. Tôi nhớ thời bé thơ được mọi người bồng bé, âu yếm, hát cho tôi nghe những lời hát ru đưa tôi vào giấc ngủ, nhớ những dòng sữa mát lành nuôi tôi lớn khôn. Tôi nhớ cả những lần ngôi trên thúng được mẹ gồng gồng gánh gánh theo ra đồng; nhớ mùi thơm béo ngậy của những con muôm muỗm, mẹ bắt ngoài đồng, dùng đóm nướng cho ăn. (Đóm là những cây que rất mỏng, vót từ cây tre, rồi phơi khô, dùng để hút điếu cầy và thắp đèn ngày xưa). Tôi nhớ cả những lần lễ tết, xóm làng mổ lợn đêm, mình thức trắng đêm xem mổ lợn chỉ để xin cái đuôi. Tôi nhớ mùi thơm của hương lúa, rơm rạ, mùi hương dịu nhẹ của hoa nhài, hoa bưởi; nhớ những cánh đồng mênh mông, bát ngát; nhớ ao nước bầy vịt; nhớ cây gạo đầu đình; nhớ bụi tre xanh; nhớ mỗi tối hàng xóm quây quần ngồi hát, mình ngủ trong lòng mẹ lúc nào không hay; nhớ cây kẹo kéo, kẹo mút, nhớ hạt bỏng ngô; nhớ hòn bi ve; nhớ cả những hàng vải um tùm, chi chít quả; nhớ trẻ dắt trâu ăn cỏ ngoài đồng, dắt bò về nhà mỗi tối, nhớ bãi phân trâu; nhớ những mái nhà lợp ngói, câu cau hoa rụng sân nhà, con chó con mèo nằm sưởi nắng; nhớ tiếng ếch nhái kêu ồm ộp… Giờ đây đứng trên đất quê hương, nhìn trên bầu trời đêm sao sáng, tôi lại nhớ những đêm cùng nhau đùa rỡn dưới trăng, rồi khi mệt nhoài, nằm lăn ra sân ngắm sao trời lung linh. Tôi nhớ cảnh thanh bình nơi quê hương. Tôi nhớ ông nội tôi. Tôi là đứa cháu được ông cưng chiều nhất. Ông nội là người thường cõng tôi đi chợ và mua cho tôi rất nhiều quà bánh. Ông nội thường xuyên dắt tôi đi chơi, thăm làng thăm xóm. Tên của tôi do chính ông đặt. Và ông nội cũng chính là người dạy tôi học ăn, học nói, dạy cho tôi những bài học đạo đức đầu tiên. Nhiều ký ức đẹp tôi có được từ ông. Tuổi thơ tôi ấm áp tình cảm ông nội dành cho tôi. Mặc dù ông nội đã mất từ khi tôi còn rất nhỏ, nhưng tình cảm ông nội dành cho tôi suốt đời không quên. Có thể nói, tình làng nghĩa xóm, cảnh vật thanh bình nơi quê hương đã in dấu trong tôi những ký ức thật đẹp đẽ, ngọt ngào, khiến cho tình yêu quê hương đối với tôi trở lên thiêng liêng. Người dân quê tôi tôn thờ đạo Phật lắm. Ai cũng có Phật ở trong tâm. Vì thế, dù rất nghèo nhưng mọi người luôn tâm niệm: “ Đói cho sạch, rách cho thơm”. Họ sống trong sáng, giản dị. Làng xóm yêu thương, đùm bọc lẫn nhau: “Lá lành đùm lá rách”, hay “Lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Cho nên, dù cho cuộc sống thiếu thốn, nhưng con người nơi đây vẫn luôn vui vẻ, lạc quan. Và nét đẹp tôi thấy được từ người dân quê, cũng như ở mẹ tôi, đó là sự chân thật. Mọi tình cảm mà người dân nơi đây dành cho nhau đều rất chân thành, trong sáng. Tôi nhìn những cụ già và trẻ nhỏ nơi quê nhà, ở họ toát lên một nét gì đó thật an bình. Nhưng người dân quê tôi tôn thờ đạo Phật không chỉ vì đạo Phật dạy cho con người ta cách sống lạc quan trước những khó khăn. Mà điều quan trọng, đạo Phật dạy con người sống phải có hiếu. Có lẽ vì thế, một nét đẹp mà tôi thấy được ở người dân quê, đó là: “ Họ sống có thứ tự trên dưới, kính trên nhường dưới. Mỗi khi có của ngon vật lạ, trước tiên phải mời tổ tiên ông bà trước, sau đó mới nhường con cháu. Mọi người sống trong cùng một gia đình, dòng họ sống đoàn kết, gắn bó, không bao giờ cãi vã hay to tiếng”. Người dân nơi đây sống luôn nhớ về cội nguồn, gốc gác. Vì thế, quê hương tôi có rất nhiều đình chùa, miếu thờ đâu cũng thấy. Mỗi nhà đều có một bàn thờ tổ tiên, quanh năm thắp hương khấn bái. Mỗi dịp cuối năm, tết đến xuân về. Dù cho có bận việc đồng áng đến thế nào, mọi người ai cũng đến mộ tổ tiên, ông bà thắp hương, cho tròn đạo hiếu, tỏ lòng biết ơn tổ tiên. Tất cả đều là những nét văn hóa thật đẹp vẫn còn đọng lại trong ký ức tôi. Nhân ngày tết ông công ông táo năm nay, tôi có dịp trở về quê nhà cùng với mẹ đi tảo mộ. Tôi trở về quê hương để nhớ về cội nguồn; trở về quê hương để tỏ lòng nhớ ơn tổ tiên, ông bà; trở về quê hương để làm sống dậy những ký ức một thời thơ ấu; trở về quê hương để thấy mình khôn lớn và trưởng thành; trở về quê hương để thấy nơi đây đã giàu mạnh và ngày càng đổi mới… Tôi vui lắm khi thấy ông bà ngoại tôi, dù đã gần 80 tuổi nhưng vẫn còn khỏe mạnh; vui vì thấy làng xóm, ai cũng nhớ thằng kết bé nhỏ này nào, ai cũng nhận ra mình, tay bắt mặt mừng; vui vì được nhìn thấy cảnh đồng quê, cánh đồng, sống nước ngày xưa; vui vì thấy quê hương đổi mới, mọi người đã có cuộc sống no đủ, nhà cửa khang trang hơn, điện nước đầy đủ, nhà ai cũng có tivi, xe máy… Nhưng điều làm tôi vui mừng hơn cả, đó là: Tình cảm của làng xóm dành cho tôi vẫn như xưa, không hề thay đổi. Cảnh thanh bình của làng quê mà ngày xưa tôi đã thấy, trong mất tôi giờ đây vẫn còn đấy. Thật đáng tiếc! Vì tôi không có máy ảnh để chia sẻ cho các bạn những cảnh thanh bình đó. Nhưng nếu bạn muốn, sẽ có một ngày, tôi cùng bạn về quê hương, để thấy được cảnh thanh bình tuyệt vời nơi đây. Thật là hạnh phúc! Quê hương tôi…! Sưu tầm
Quê Hương Giang Nam Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ "Ai bảo chăn trâu là khổ'' Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao Những ngày trốn học Đuổi bướm cầu ao Mẹ bắt được... Chưa đánh roi nào đã khóc! Có cô bé nhà bên Nhìn tôi cười khúc khích... Cách mạng bùng lên Rồi kháng chiến trường kỳ Quê tôi đầy bóng giặc Từ biệt mẹ, tôi đi Cô bé nhà bên (có ai ngờ!) Cũng vào du kích Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!) Giữa cuộc hành quân không nói được một lời Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi... Hòa bình tôi trở về đây Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày Lại gặp em Thẹn thùng nép sau cánh cửa Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!) Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi Em để yên trong tay tôi nóng bỏng... Hôm nay nhận được tin em Không tin được dù đó là sự thật Giặc bắn em rồi, quăng mất xác Chỉ vì em là du kích, em ơi! Đau xé lòng anh, chết nửa con người! Xưa yêu quê hương vì có chim, có bướm Có những ngày trốn học bị đòn, roi Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất Có một phần xương thịt của em tôi. Năm 1960, trên chiến khu ở Khánh Hoà, Giang Nam nhận được tin dữ, đau xé lòng: Vợ anh (chị Phạm Thị Chiều) và con gái đầu lòng của anh chị mới hơn một tuổi (cháu Trang) đã bị Mỹ - nguỵ sát hại trong tù. Bài thơ Quê hương của Giang Nam ra đời trong hoàn cảnh ấy. Viết liền mạch. Đúng là tâm trạng: “Đau xé lòng anh, chết nửa con người!”. Viết xong, Giang Nam trình lên đồng chí Nguyễn Xuân Hữu (Bảy Hữu), Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hoà hồi đó, “xin ý kiến”. Anh Bảy trầm ngâm: “Hay lắm! Nhưng hơi buồn... Cậu ráng giữ tinh thần và ý chí tiến công. Hy sinh, mất mát là chuyện bình thường trong chiến tranh. Mình tin vào Giang Nam lắm đó!”. Bản thảo bài thơ theo đường giao liên Trường Sơn đi dần ra Bắc. Mãi 11 tháng sau, vào năm 1961, Giang Nam mới được đọc bài thơ Quê hương in trên báo Văn nghệ gửi từ Hà Nội vào. Tác giả nhận ngay được giải nhì về thơ. Bởi nó rất hay, hay đến thật lòng, hay da diết. Nhưng, số phận không chỉ mỉm cười riêng với thơ. Năm sau (1962), có ai ngờ, vợ con anh vẫn còn sống và thoát ra khỏi ngục tù của Mỹ - ngụy. Năm 1964, tổ chức bố trí cho chị Chiều và cháu Trang từ Sài Gòn - Chợ Lớn lên thăm anh ở căn cứ Trung ương Cục. Song, một lần nữa, thật nghiệt ngã, chị cùng con gái lại bị địch bắt bên dòng sông Vàm Cỏ Đông. Lần này, chị và cháu ở tù cùng với chị Châu (vợ anh Lê Hồng Tư, tức chị X. trong tác phẩm “Sống như anh” của Trần Đình Vân), chị Quyên (vợ liệt sĩ - Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi) và một số đồng chí nữ trung kiên khác. Hơn 10 năm sau, khoảng giữa năm 1973, anh chị và cháu gái mới lại được gặp nhau. Ngỡ không thể nhận ra được nhau nữa, ngay trên Củ Chi - đất thép Thành Đồng. Chiến tranh, cả những hy sinh, mất mát đã lùi xa. Nhưng, bài thơ Quê hương vẫn da diết đọng lại trong tâm khảm người đọc nhiều thế hệ. Mãi đến năm 1998, nhớ chuyện cũ, Giang Nam vẫn còn viết: “… Ôi con cò, con vạc. Nhớ thương bay mãi đến bây giờ…”. Tuổi mới yêu - dù ở thế hệ nào - rồi cũng bắt nhịp được trái tim mình vào tứ thơ “cười khúc khích” - “vẫn khúc khích cười, khi tôi hỏi nhỏ”. Quả thật, đời thường và sự nghiệp của anh đều hạnh phúc. Chỉ riêng một bài thơ như vậy, dường như cũng đã nói đủ về Giang Nam… Phụ bản Thơ – Báo Văn nghệ
Tình yêu chân thành sẽ luôn có một cái kết hạnh phúc cho dù có trải qua bao nhiêu sóng gió, thử thách hay gì gì đi nữa...@
Phiến diện! Sách vở quá đê hihihi Nếu cứ theo cái "Công thức" đó thì Thế gian này chắc chẳng bao giờ có nước mắt, đau khổ hehehe